Việt Nam 40 năm Đổi mới: Kỳ tích mang tầm thời đại

Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Một trong những yếu tố quan trọng có tính quyết định cho thành công đó chính là thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới.

Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Một trong những yếu tố quan trọng có tính quyết định cho thành công đó chính là thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới.

Sự lựa chọn lịch sử

Đổi mới như một sức sống mãnh liệt ngày càng lan tỏa, ngày càng đi vào bề rộng và chiều sâu của đời sống xã hội, làm mới mẻ, rõ ràng, mạch lạc hơn cách nhìn nhận, cách nghĩ, cách làm để biết mình, biết người hơn. Khắc phục những nhận thức lệch lạc, từng bước hình thành, xác lập những mục tiêu, bước đi cũng như những cách thức phát triển đất nước phù hợp với xu thế của thế giới và đặc thù của Việt Nam.

Chính vì thế, công cuộc đổi mới đã thực sự gắn bó với vận mệnh của dân tộc, của đất nước và mỗi người chúng ta. Đổi mới là quá trình tự gạt bỏ và tháo gỡ những cản trở, tổ chức lại xã hội, giải phóng mọi năng lực, động viên và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng của đất nước, để có thể đi tắt, đón đầu, tăng tốc. Đổi mới không chỉ là đường lối phát triển đất nước, mang tính đột phá sáng tạo, mà còn là sự gắn kết vững chắc giữa ý Đảng với lòng dân, tạo nên một sức mạnh vô cùng to lớn, một phép màu cho đất nước vươn tầm. Nhìn lại hành trình 40 năm đổi mới, chúng ta thấy rõ những điều đó.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối Đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ảnh tư liệu

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối Đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ảnh tư liệu

Vào giữa thập niên 1980, Việt Nam đứng trước một tình thế vô cùng khó khăn. Sau chiến tranh, đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ khôi phục và xây dựng trong bối cảnh bị bao vây cấm vận, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung được áp dụng triệt để. Mô hình này nhanh chóng bộc lộ những hạn chế nghiêm trọng. Sản xuất trì trệ, năng suất lao động thấp, lạm phát phi mã, đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn. Hệ thống phân phối hàng hóa qua tem phiếu không đáp ứng được nhu cầu thực tế, trong khi nền kinh tế gần như đóng cửa với thế giới. Lạm phát năm 1986 vượt 700%, GDP bình quân đầu người chỉ khoảng trên 100 USD, xếp trong nhóm 20 nước nghèo nhất thế giới. Tình trạng thiếu lương thực, hàng hóa, năng lượng diễn ra phổ biến. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, ngân sách nhà nước thâm hụt nghiêm trọng. Trong khi đó, khu vực kinh tế tư nhân bị hạn chế, không được quan tâm đúng mức. Tình trạng “khoán chui” trong nông nghiệp và buôn bán nhỏ lẻ tự phát trở nên phổ biến, phản ánh nhu cầu cấp thiết phải thay đổi cơ chế.

Trong bối cảnh đó, yêu cầu đổi mới trở thành một đòi hỏi khách quan từ thực tiễn. Một số nhân tố chính thúc đẩy sự ra đời của công cuộc đổi mới có thể kể đến: thực tiễn cuộc sống với những sáng kiến tự phát của người dân, kinh nghiệm quốc tế từ các nước XHCN đang cải cách, đặc biệt là ý chí chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới. Đây là sự lựa chọn mang tính lịch sử, không chỉ thay đổi mô hình kinh tế mà còn mở ra một tư duy mới về quản lý, phát triển và hội nhập.

Đại hội VI xác định rõ: Đổi mới là một yêu cầu sống còn của đất nước, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Ba trụ cột chính của đổi mới được xác lập: chuyển đổi mô hình kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN; mở cửa và hội nhập với thế giới và cải cách thể chế để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với các đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Ảnh: Xuân Lâm/TTXVN

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với các đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Ảnh: Xuân Lâm/TTXVN

Không ngừng tìm tòi, sáng tạo

Sau khi xác lập đường lối đổi mới, Việt Nam bước vào giai đoạn thử nghiệm và từng bước điều chỉnh chính sách. Đổi mới không phải là một lần thay đổi, mà là quá trình tìm tòi, sáng tạo, thích ứng với thực tiễn trong nước và học hỏi từ thế giới. Những bước đi đầu tiên còn thận trọng nhưng đã tạo ra những chuyển biến sâu sắc trong nền kinh tế và xã hội.

Một trong những chính sách đột phá đầu tiên là Khoán 10 trong nông nghiệp (1988), chính thức hóa việc giao đất và sản phẩm cho hộ gia đình. Chính sách này đã giải phóng sức sản xuất, khơi dậy động lực của người nông dân, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.

Tiếp đó, Luật Đầu tư nước ngoài (1987) ra đời, mở cửa nền kinh tế với thế giới. Đây là bước đi táo bạo trong bối cảnh Việt Nam vẫn đang bị cấm vận. Luật này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Cùng với đó, cải cách doanh nghiệp nhà nước được triển khai mạnh mẽ. Hàng loạt doanh nghiệp được cổ phần hóa, tái cơ cấu, chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo nhưng không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Một đặc điểm nổi bật của quá trình đổi mới là sự linh hoạt trong chính sách, luôn điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn. Chính phủ từng bước thị trường hóa giá cả, xóa bỏ cơ chế bao cấp, để giá cả vận hành theo cung cầu. Điều này giúp khơi thông lưu thông hàng hóa, giảm méo mó thị trường và kích thích sản xuất. Cải cách thuế và tài chính cũng được thực hiện đồng bộ. Hệ thống thuế hiện đại, minh bạch được xây dựng, tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Chính sách tài khóa và tiền tệ được điều hành linh hoạt, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Đặc biệt, khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển. Từ chỗ bị xem là “phi chính thống”, kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của tăng trưởng. Hàng triệu hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời, đóng góp lớn vào GDP và tạo nhiều việc làm.

Đổi mới không chỉ là thay đổi chính sách kinh tế, mà còn là đổi mới tư duy quản lý nhà nước. Chính phủ từng bước cải cách hành chính, tinh giản bộ máy, nâng cao hiệu quả điều hành. Các quy trình thủ tục được số hóa, minh bạch hóa, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Trên bình diện quốc tế, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu. Việc gia nhập ASEAN (1995), ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là WTO (2007), CPTPP, EVFTA… đã mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong những năm gần đây, Việt Nam bắt đầu chuyển sang kinh tế số và đổi mới sáng tạo. Chính phủ thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý, giáo dục, y tế, tài chính… Các doanh nghiệp công nghệ phát triển mạnh mẽ, tạo nền tảng cho nền kinh tế tri thức trong tương lai.

Kỳ tích về phát triển kinh tế - xã hội

Sau 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế và xã hội vượt bậc, được cộng đồng quốc tế ghi nhận như một “phép màu châu Á”. Những kết quả này không chỉ thể hiện qua các con số tăng trưởng mà còn phản ánh sự thay đổi sâu sắc trong đời sống người dân, trong cấu trúc xã hội và vị thế quốc gia. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng từ khoảng trên 100 USD (năm 1986) lên gần 5.000 USD (năm 2025), gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng nông nghiệp giảm từ hơn 40% xuống dưới 15% GDP, trong khi công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Việt Nam từ một nền kinh tế đóng cửa đã trở thành một quốc gia xuất khẩu lớn. Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2025 đạt khoảng 900 tỷ USD, tăng gấp hàng chục lần so với năm 1990. Các mặt hàng chủ lực gồm điện tử, dệt may, giày dép, nông sản, thủy sản. Việt Nam là thành viên của nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP. Việt Nam cũng trở thành điểm đến hấp dẫn cho các tập đoàn đa quốc gia. Tổng vốn FDI đăng ký đến năm 2023 đạt hơn 450 tỷ USD. Các khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển mạnh tại Bắc Ninh, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh… FDI đóng góp lớn vào công nghiệp hóa, tạo việc làm và chuyển giao công nghệ. Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện rõ rệt. Mạng lưới đường cao tốc, cảng biển, sân bay, viễn thông phát triển mạnh. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 19% (năm 1986) lên 45% (năm 2025). Các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng trở thành trung tâm kinh tế - văn hóa hiện đại. Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 đạt bình quân khoảng 6,3%/năm, thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trên thế giới. Quy mô GDP năm 2025 đạt khoảng 510 tỷ USD, xếp thứ 32 trên thế giới.

 Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, ngày 17/5/2025. Ảnh: Lâm Hiển

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, ngày 17/5/2025. Ảnh: Lâm Hiển

Một trong những thành tựu nổi bật nhất là giảm nghèo bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ hơn 58% vào đầu thập niên 1990 xuống còn 1,1% vào năm 2025. Việt Nam được Liên Hợp Quốc đánh giá là một trong những quốc gia thành công nhất trong việc xóa đói giảm nghèo. Chất lượng sống của người dân được cải thiện rõ rệt: tỷ lệ tiếp cận điện, nước sạch, dịch vụ y tế và giáo dục tăng mạnh; chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục được cải thiện, xếp vào nhóm trung bình cao của thế giới. Đến tháng 9/2025, hoàn thành việc xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước. Đây là một biểu hiện tính nhân văn cao đẹp của nước ta. Tuổi thọ trung bình tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên hơn 74 tuổi năm 2025, phản ánh sự tiến bộ vượt bậc trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Giáo dục là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư và cải cách mạnh mẽ. Việt Nam đã phổ cập giáo dục tiểu học và THCS trên toàn quốc, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục đại học và đào tạo nghề. Học sinh Việt Nam đạt thành tích cao trong các kỳ thi quốc tế như PISA, Olympic Toán, Lý, Hóa. Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung tâm đào tạo nghề được mở rộng, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho nền kinh tế đang chuyển dịch sang công nghiệp và dịch vụ.
Bên cạnh đó, hệ thống y tế được củng cố từ tuyến cơ sở đến trung ương. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 90%, giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế với chi phí hợp lý. Các chương trình tiêm chủng mở rộng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phòng, chống dịch bệnh được triển khai hiệu quả, góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng.

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân. Ảnh: Lâm Hiển

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân. Ảnh: Lâm Hiển

Việt Nam cũng đạt nhiều tiến bộ trong bảo vệ quyền con người và thúc đẩy bình đẳng giới. Phụ nữ chiếm tỷ lệ cao trong lực lượng lao động và giữ nhiều vị trí lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội. Quyền trẻ em, người khuyết tật, người yếu thế được bảo vệ tốt hơn thông qua các chính sách an sinh xã hội, giáo dục hòa nhập và hỗ trợ đặc thù. Việt Nam tham gia nhiều công ước quốc tế về quyền con người và thực hiện nghiêm túc các cam kết, góp phần nâng cao hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế.

Tiếp tục đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Đất nước sau 40 năm đổi mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế đã được nâng lên tầm cao mới. Phát huy những thành tựu to lớn và những kinh nghiệm quý báu của những năm qua, Đảng ta xác định tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tự lực, tự cường, tự tin tiến mạnh vào kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc. Đây là nhiệm vụ rất trọng đại đòi hỏi tiếp tục đổi mới tư duy, tầm nhìn chính xác để có những quyết sách chiến lược sáng tạo phù hợp với thực tế và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.

Thực tế cho thấy, bên cạnh những thành tựu to lớn, Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều thách thức mới trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và biến đổi khí hậu. Tăng trưởng kinh tế đã đạt được kết quả ngoạn mục nhưng chưa thật tự chủ, vẫn dựa nhiều vào vốn đầu tư và lao động giá rẻ, trong khi năng suất lao động còn thấp so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia. Việc chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu, dựa trên đổi mới sáng tạo, công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực là một yêu cầu cấp bách.

Khoảng cách phát triển giữa các vùng miền còn lớn, đặc biệt là giữa đô thị và nông thôn, miền núi và đồng bằng. Các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa vẫn gặp khó khăn về hạ tầng, giáo dục, y tế. Tình trạng di cư lao động từ nông thôn ra đô thị gây áp lực lên hệ thống dịch vụ công và môi trường đô thị. Biến đổi khí hậu là một thách thức nghiêm trọng đối với Việt Nam - một quốc gia có đường bờ biển dài và nhiều vùng đồng bằng thấp. Nước biển dâng, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn đe dọa sinh kế hàng triệu người dân, đặc biệt ở Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, và miền núi phía Bắc. Ô nhiễm không khí, nước, rác thải đô thị và công nghiệp đang là vấn đề cấp bách, đòi hỏi sự chuyển đổi sang mô hình phát triển xanh, tuần hoàn và bền vững.

Mặc dù đã có nhiều cải cách, thể chế kinh tế thị trường của Việt Nam vẫn chưa thật hoàn thiện. Tình trạng chồng chéo pháp luật, thủ tục hành chính rườm rà, năng lực quản lý nhà nước chưa đồng đều vẫn là rào cản đối với phát triển. Việc nâng cao hiệu quả quản trị, minh bạch hóa và phòng chống tham nhũng cần tiếp tục được đẩy mạnh. Trong kỷ nguyên mới, Việt Nam tiếp tục đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững, đầu tư vào con người và hội nhập sâu rộng để hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Ảnh minh họa. Nguồn: ITN

Ảnh minh họa. Nguồn: ITN

Việc xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển (R&D), hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ là động lực mới cho tăng trưởng. Chuyển đổi số trong quản lý nhà nước, doanh nghiệp, giáo dục, y tế… sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động và tạo ra giá trị mới. Phát triển trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, Internet vạn vật là xu thế tất yếu. Xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số không chỉ là mục tiêu mà còn là phương thức để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Việc chuyển sang mô hình phát triển xanh, tuần hoàn là xu thế toàn cầu mà Việt Nam cần nắm bắt. Thúc đẩy năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ, giao thông xanh sẽ giúp giảm phát thải, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sống. Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 theo Thỏa thuận Paris, thể hiện trách nhiệm quốc tế và quyết tâm phát triển bền vững. Bảo vệ đa dạng sinh học, quản lý tài nguyên hiệu quả cũng là những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia.

Con người là trung tâm của phát triển. Việt Nam tiếp tục xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển kỹ năng số, kỹ năng mềm cho lực lượng lao động, đổi mới phương pháp giảng dạy, kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng y tế, an sinh xã hội, chăm sóc người cao tuổi là những yếu tố không thể thiếu trong một xã hội phát triển toàn diện.

Thực hành nghề tự động hóa tại phòng học công nghệ 4.0. Ảnh: TTXVN

Thực hành nghề tự động hóa tại phòng học công nghệ 4.0. Ảnh: TTXVN

Việt Nam chủ động tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việc tham gia các hiệp định thương mại thế hệ mới không chỉ là cơ hội mà còn là động lực cải cách thể chế. Thúc đẩy ngoại giao và hội nhập quốc tế về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, quốc phòng, an ninh sẽ giúp nâng tầm vị thế quốc gia. Góp phần xây dựng hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững trong khu vực và thế giới là trách nhiệm và cơ hội của Việt Nam đang vươn lên mạnh mẽ.

Trong kỷ nguyên mới, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững, đầu tư vào con người và hội nhập sâu rộng để hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Đó không chỉ là mục tiêu kinh tế, mà còn là lý tưởng xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh - nơi mỗi người dân đều được sống trong tự do, hạnh phúc và phát triển toàn diện.

40 năm đổi mới là một chặng đường lịch sử đầy bản lĩnh, sáng tạo và khát vọng của dân tộc Việt Nam. Quá trình đổi mới đã hình thành tổng thể các quan điểm mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị bao vây cấm vận và đối mặt với khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, trở thành một trong những nền kinh tế phát triển năng động nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu đã thành hiện thực.

Thành công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam 40 năm qua có tác động to lớn trên trường quốc tế, tạo nguồn cảm hứng cho các nước vừa và nhỏ ở tất cả các châu lục có thể tham khảo kinh nghiệm để vươn tới giàu mạnh, các cường quốc trên thế giới đều nể trọng.

Không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam hiện là nước duy nhất trên thế giới có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với cả 5 nước là Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc (Nga, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh, Pháp). Những thành tựu đạt được không chỉ thể hiện qua các chỉ số tăng trưởng kinh tế, mà còn được khẳng định bằng sự cải thiện toàn diện trong đời sống xã hội, chất lượng sống của người dân, vị thế quốc tế và niềm tin vào tương lai.

Tuy nhiên, đổi mới không hề có điểm dừng mà là một hành trình liên tục không ngừng nghỉ. Những thách thức mới trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số, biến đổi khí hậu và cạnh tranh quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục đổi mới tư duy, thể chế, mô hình phát triển và cách tiếp cận. Đổi mới trong kỷ nguyên mới không chỉ là đổi mới kinh tế, mà còn là đổi mới về thể chế, văn hóa - xã hội, khoa học công nghệ, quản trị quốc gia và phát triển con người. Đó là sự đổi mới toàn diện, sâu sắc, sáng tạo và bền vững.

TP. Hồ Chí Minh sẽ là một trung tâm tài chính, dịch vụ, thương mại, logistics, công nghiệp công nghệ cao và du lịch biển quy mô khu vực; với định hướng phát triển trên nền tảng công nghệ số, kinh tế xanh. Ảnh minh họa. Nguồn: baochinhphu.vn

TP. Hồ Chí Minh sẽ là một trung tâm tài chính, dịch vụ, thương mại, logistics, công nghiệp công nghệ cao và du lịch biển quy mô khu vực; với định hướng phát triển trên nền tảng công nghệ số, kinh tế xanh. Ảnh minh họa. Nguồn: baochinhphu.vn

Khát vọng vươn lên trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 là hoàn toàn khả thi vì Việt Nam tiếp tục phát huy tinh thần đổi mới, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nâng cao năng lực nội sinh, tận dụng hiệu quả các cơ hội từ hội nhập quốc tế và chuyển đổi công nghệ.

Thành công của 40 năm đổi mới là kỳ tích mang tầm thời đại, kiến tạo một cơ đồ vững chắc đầy năng lượng để Việt Nam tự tin bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, vì hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

GS.TS Vũ Văn Hiền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên đại biểu Quốc hội

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/viet-nam-40-nam-doi-moi-ky-tich-mang-tam-thoi-dai-10395013.html