Việt Nam không ngừng bảo đảm và nâng cao quyền thụ hưởng văn hóa của nhân dân
Trong hành trình 80 năm xây dựng và phát triển đất nước, ngành văn hóa Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trong việc bảo đảm và nâng cao quyền thụ hưởng văn hóa của nhân dân, định hình vai trò trung tâm của văn hóa như là nền tảng tinh thần và động lực phát triển.

Khối văn hóa, thể thao trong chương trình diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9.
Theo PGS.TS. Đỗ Thị Thanh Thủy, Trưởng Ban Nghiên cứu văn hóa thuộc Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam (Bộ VHTTDL), dưới sự lãnh đạo của Đảng với sứ mệnh phụng sự nhân dân, thấm nhuần quan điểm lấy “dân là gốc”, phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân, trong suốt hơn 80 năm qua, ngành văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong bảo đảm và nâng cao quyền thụ hưởng văn hóa của nhân dân. Những thành quả này tạo nền tảng vững chắc cho mục tiêu xây dựng một xã hội nhân văn, công bằng và thịnh vượng, nơi văn hóa được xác định là động lực, mục tiêu, nền tảng, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đất nước.
Văn hóa soi đường quốc dân đi
Nền văn hóa Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời kế thừa, phát huy những giá trị nhân văn, giàu bản sắc của truyền thống dân tộc và không ngừng tiếp thu, chọn lọc, tiếp biến tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trải qua các giai đoạn lịch sử, từ giai đoạn kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước cho đến thời kỳ hòa bình, độc lập, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước luôn kiên định quan điểm xuyên suốt, đó là, mọi nỗ lực xây dựng và phát triển văn hóa đều phải hướng tới phục vụ nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng, từ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp và hạnh phúc của nhân dân.
Nhân dân không chỉ là đối tượng cần được thụ hưởng các giá trị văn hóa mà hơn nữa, cũng chính là chủ thể gìn giữ, sáng tạo và bồi đắp nền văn hóa của dân tộc. Chính định hướng này đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững và toàn diện của đất nước trong suốt chặng đường lịch sử 80 năm qua và là điểm tựa vững chắc hướng tới tương lai.
Nhìn lại hành trình 80 năm xây dựng và phát triển đất nước, có thể khẳng định ngành văn hóa đã có những đóng góp quan trọng và tích cực, định hình vai trò trung tâm của văn hóa như là nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực, sức mạnh nội sinh quan trọng, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, gắn với bảo đảm và nâng cao quyền thụ hưởng văn hóa của nhân dân. Những thành tựu chính của ngành văn hóa đã đạt được trong 80 năm đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc được nhận diện và khái quát như sau.
Hệ thống chính sách văn hóa Việt Nam tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng toàn diện, thống nhất và gắn với thực tiễn, nhằm bảo đảm quyền tiếp cận và thụ hưởng văn hóa của mọi tầng lớp nhân dân.
Trong suốt hơn 80 năm qua, hệ thống chính sách có tính bao trùm, toàn diện và gắn với thực tiễn, với mục tiêu cao nhất để đảm bảo và nâng cao quyền thụ hưởng văn hóa của nhân dân luôn được Đảng và Nhà nước ta kiên định xây dựng và tiếp tục hoàn thiện. Ngay từ thời điểm những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, khi vận mệnh dân tộc đang đứng trước nhiều chông gai, thử thách, Đảng ta đã xác định vị trí, vai trò đặc biệt của văn hóa, đặt văn hóa ở vị trí trọng yếu trong chiến lược đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Đề cương về văn hóa Việt Nam được Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua (tháng 2/1943) là văn kiện nền móng trong việc xây dựng lý luận về định hướng phát triển văn hóa Việt Nam, xác lập ba nguyên tắc lớn: dân tộc, khoa học, đại chúng, khẳng định nền văn hóa mới mà Đảng ta xây dựng chính là nền văn hóa thuộc về nhân dân và do nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp học của công nhân Nhà máy 1-5 (Hà Nội) - lá cờ đầu của phong trào bổ túc văn hóa ngành công nghiệp, ngày 19/12/1963. (Ảnh tư liệu)
Tiếp đó, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (24/11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, khẳng định vai trò dẫn dắt của văn hóa và mục tiêu cao nhất của văn hóa là vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân.
Từ Đề cương văn hóa năm 1943 cho tới nay, Đảng và nhà nước ta luôn nhất quán định hướng xây dựng, củng cố và hoàn thiện cơ sở pháp lý và thể chế văn hóa là tiền đề kiến tạo môi trường văn hóa thuận lợi, phát huy sức mạnh nội sinh, lấy con người làm trung tâm, làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống quan điểm và đường lối của Đảng về phát triển văn hóa và con người Việt Nam đã được thể chế hóa thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước, được hiến định trong Hiến pháp như một cơ sở pháp lý tối cao, bảo đảm định hướng lâu dài và bền vững.
Đảm bảo quyền tiếp cận và hưởng thụ văn hóa của nhân dân là một mục tiêu luôn được nhấn mạnh, chú ý trong các văn kiện của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Tinh thần chủ đạo này được hiện thực hóa thông qua các kế hoạch, chiến lược và chương trình triển khai ở nhiều cấp độ, với sự phối hợp của nhiều ban ngành, cơ quan, tổ chức, cá nhân, cùng đồng hành cùng với những nỗ lực của ngành văn hóa.
Đáng chú ý là, trong những năm gần đây, các văn bản chính sách về lĩnh vực văn hóa ngày càng được chú trọng bổ sung, hoàn thiện theo cách tiếp cận đa chiều, đa tầng, đa ngành, trong đó văn hóa được nhìn nhận như một lĩnh vực năng động, nhiều chiều kích, gắn với sự phát triển toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường… Văn hóa được nhìn nhận như nguồn vốn xã hội, củng cố bản sắc dân tộc và sự gắn kết cộng đồng, vừa mang lại giá trị kinh tế, tạo cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng đời sống tinh thần và thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về văn hóa được chú trọng, hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến văn hóa hiện nay đang xây dựng và hoàn thiện theo hướng mở, cập nhật, linh hoạt và thích ứng, chú ý tối ưu hóa giá trị kinh tế của văn hóa mà vẫn bảo tồn bản sắc dân tộc và giữ gìn các giá trị nhân văn. Văn hóa cũng được chú trọng như một quá trình liên tục bao gồm sáng tạo, bảo tồn và kế thừa, hướng đến sự cân đối hài hòa hơn giữa bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Với các chính sách đúng đắn này, đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú, đa dạng hơn, đảm bảo quyền tiếp cận cao nhất của người dân đến văn hóa, từ đó để văn hóa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Có được điều này, một phần là do nhìn nhận về văn hóa ngày càng được gắn kết và tích hợp trong các chính sách ở nhiều lĩnh vực khác, như giáo dục, du lịch, nghiên cứu, ngoại giao, các chính sách an sinh xã hội và môi trường, các quy hoạch vùng, địa phương….
Đồng thời, hệ thống chính sách văn hóa hiện nay đang chú ý tổng thể đến nhiều vấn đề có tính chất nền tảng cho sự phát triển bền vững của văn hóa gắn với quyền lợi của người dân như: đầu tư vào cơ sở hạ tầng, giáo dục, dịch vụ xã hội, hỗ trợ tài chính và chính sách để mở rộng cơ hội thụ hưởng văn hóa trong bối cảnh phát triển, hội nhập và toàn cầu hóa.
Hơn nữa, đã có những chuyển biến tích cực trong cách tiếp cận quản lý nhà nước về văn hóa, dần từng bước chuyển từ mô hình từ trên xuống sang mô hình hợp tác đa chiều. Toàn ngành văn hóa đã quyết liệt thay đổi tư duy từ “làm văn hóa” sang “quản lý nhà nước về văn hóa” thông qua công cụ pháp luật. Từng bước khuyến khích các mô hình quản trị tích hợp, huy động nguồn lực và sự tương tác hiệu quả hơn giữa các cơ quan nhà nước với doanh nghiệp và cộng đồng trong quản lý văn hóa.

Người khuyết tật tham gia dàn hợp xướng đa dạng Hà Nội. (Nguồn: Nhân Dân)
Bảo đảm quyền văn hóa cho tất cả mọi người
PGS.TS. Đỗ Thị Thanh Thủy nhận định, nhìn chung trong thời gian qua, tại Việt Nam, hệ thống chính sách nói chung và các chính sách liên quan đến phát triển văn hóa được ban hành, ngày càng hài hòa với các chuẩn mực quốc tế về quyền văn hóa. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng nhằm bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, đặc biệt là quyền tiếp cận, tham gia và thụ hưởng các giá trị văn hóa.
PGS.TS. Đỗ Thị Thanh Thủy lấy dẫn chứng Luật Người khuyết tật năm 2010 (Luật số 51/2010/QH12) là cơ sở pháp lý nền tảng, bảo đảm quyền tiếp cận, tham gia và thụ hưởng các giá trị văn hóa, nghệ thuật, thể thao và giải trí của người khuyết tật một cách bình đẳng với mọi công dân. Luật cũng xác định quy định Nhà nước, tổ chức, cá nhân và cộng đồng có trách nhiệm tạo điều kiện, hỗ trợ cơ sở vật chất và dịch vụ văn hóa phù hợp, giúp người khuyết tật hòa nhập đời sống tinh thần và phát huy năng lực sáng tạo.
Không chỉ dừng ở Luật Người khuyết tật, hiện nay những luật khác liên quan đến trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, dân tộc thiểu số, người nghèo, cùng với các nghị định và chiến lược phát triển văn hóa khác đã tạo hành lang pháp lý toàn diện, đảm bảo mọi công dân đều được tiếp cận và hưởng thụ văn hóa một cách công bằng, theo nguyên tắc “không ai bị bỏ lại phía sau”.
Thời gian qua, ngành văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu trong việc mở rộng khả năng tiếp cận những sản phẩm văn hóa thông qua công nghiệp văn hóa và những chính sách hỗ trợ khác, góp phần đảm bảo quyền thụ hưởng văn hóa của nhân dân. Thị trường văn hóa ngày càng khởi sắc, các sản phẩm và dịch vụ đa dạng hơn; chất lượng sản phẩm được nâng cao nhờ vào việc phát huy tri thức, sức sáng tạo và tư duy đổi mới của các chủ thể đa dạng trong xã hội như: nghệ sĩ, nghệ nhân, doanh nhân, nhà khoa học, cộng đồng và các chủ thể sáng tạo, thực hành khác.
Tự do sáng tạo ngày càng được tôn trọng và mở rộng nhờ những chính sách khuyến khích kịp thời và môi trường pháp lý tiến bộ. Xu hướng chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm trong quản lý văn hóa đã tạo điều kiện cho nghệ sĩ và doanh nghiệp chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm về sản phẩm, dịch vụ. Khuyến khích đổi mới sáng tạo trong chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước là động lực xúc tác cho nguồn cung sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú hơn, đặc biệt với những lĩnh vực như điện ảnh, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn… đã chứng kiến sự phát triển mạnh thu hút đông đảo công chúng nội địa.
Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa không chỉ liên quan mà còn là một nội dung cốt lõi trong quyền hưởng thụ văn hóa. Người dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là đối tượng thụ hưởng, đồng thời có trách nhiệm và quyền trong việc giữ gìn và phát triển giá trị văn hóa dân tộc.
Để đảm bảo quyền văn hóa, việc thừa nhận và tôn trọng sự độc đáo và đa dạng của văn hóa, bao gồm văn hóa của các nhóm thiểu số, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa đã được ngành đặc biệt quan tâm chú ý, góp phần đưa các đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn.
Việt Nam là đất nước có bề dày lịch sử và văn hóa truyền thống hàng ngàn năm. Văn hóa Việt Nam có sự thống nhất trong đa dạng, là sự hòa quyện, kết tinh giữa bản sắc văn hóa 54 dân tộc anh em. Trải qua những thăng trầm lịch sử, trong tiến trình phát triển, truyền thống văn hóa đã trở thành mạch nguồn nuôi dưỡng, tạo nên nét đẹp, cốt cách của con người Việt Nam, đồng thời kết tinh thành kho tàng di sản văn hóa đa dạng, phong phú với nhiều loại hình và thành tố khác nhau.
Ý thức sâu sắc về tầm quan trọng của bản sắc văn hóa, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đã dành sự quan tâm đặc biệt cho việc bảo tồn và phát huy văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc luôn được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng cũng như trong các phát biểu chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, nhà nước. Định hướng, tầm nhìn về bảo vệ, gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời gạn đục, khơi trong, chủ động tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh hoa văn hóa phù hợp của nhân loại trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế, giữ vững bản sắc văn hóa, hòa nhập mà không “hòa tan” đã và đang được minh chứng bằng những kết quả đáng khích lệ.
Công tác kiểm kê, ghi danh các di sản văn hóa được tăng cường. Hệ thống di sản văn hóa Việt Nam được ghi nhận rộng rãi với con số ấn tượng, góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế của địa phương, tạo sinh kế, công ăn việc làm ổn định cho hàng vạn lao động tại địa bàn có di sản, đồng thời góp phần khơi dậy niềm tự hào dân tộc về bản sắc văn hóa, thúc đẩy sự cố kết cộng đồng.
Đáng chú ý là, trong bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa, vai trò chủ thể của cộng đồng ngày càng được chú ý. Mỗi cá nhân, nhóm, cộng đồng và dân tộc có quyền trong duy trì, bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa riêng. Nhiều tín ngưỡng, phong tục, tập quán tốt đẹp, nhiều loại hình di sản vật thể và phi vật thể được bảo tồn và được phát huy, tăng cường tích hợp vào sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hiện tại, gắn với sinh kế cộng đồng và phát triển bền vững.
"Có thể nhận thấy, hưởng thụ văn hóa của người dân ngày càng được tăng cường đi cùng với việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa, góp phần xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh và phát triển bền vững, đảm bảo đa dạng về văn hóa vùng miền, dân tộc, nhận được sự ghi nhận của đông đảo quần chúng nhân dân", PGS.TS. Đỗ Thị Thanh Thủy đánh giá.

Hát quan họ Bắc Ninh trên thuyền phục vụ du khách tại Hội Lim. (Ảnh: Thanh Tùng)
Đẩy mạnh số hóa, bình đẳng giới và đa dạng văn hóa trong tiếp cận, hưởng thụ văn hóa
PGS.TS. Đỗ Thị Thanh Thủy chỉ ra rằng trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã nỗ lực thích ứng với bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu thông qua việc ban hành nhiều chính sách, nhằm phấn đấu trở thành quốc gia số dựa trên ba trụ cột cơ bản: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Các chính sách được triển khai theo hướng xây dựng hạ tầng viễn thông đồng bộ, thúc đẩy hình thành và phát triển kinh tế số, từng bước khẳng định vai trò là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Công nghệ số được khuyến khích áp dụng trong các nhiều lĩnh vực; nhiều mô hình kinh doanh và dịch vụ mới xuyên biên giới đã xuất hiện trên nền tảng Internet, góp phần mở rộng cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập, tăng tiện ích xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Dữ liệu cho thấy việc thụ hưởng văn hóa của người dân đang dịch chuyển mạnh mẽ sang không gian trực tuyến. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến tháng 1/2024, Việt Nam có 78,44 triệu người dùng Internet, chiếm khoảng 79,1% tổng dân số, với thời gian sử dụng trung bình gần 7 giờ mỗi ngày (con số này đã gia tăng nhanh chóng so với năm 1997, chỉ hơn 200.000 người Việt sử dụng Internet, năm 2007 tăng lên gần 20 triệu người, chiếm khoảng 24% dân số).
Tính đến đầu năm 2025, theo số liệu từ Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin điện tử, Bộ Thông tin và Truyền thông (cũ), tại Việt Nam đã có khoảng 7,4 triệu thuê bao OTT TV (dịch vụ truyền hình Internet)—tăng 33% so với con số 5,6 triệu vào năm 2023. Một số số liệu khác nhận định, đến đầu năm 2025, có khoảng 61,5% người dùng Internet tại Việt Nam xem truyền hình và video trực tuyến trên các nền tảng OTT. Tính đến tháng 1 năm 2025, tại Việt Nam có 76,2 triệu tài khoản mạng xã hội - tương đương với 75,2% tổng dân số.
Hạ tầng Internet ở Việt Nam hiện đã có bước phát triển vượt bậc với 88,7% thuê bao di động sử dụng smartphone, 82,3% hộ gia đình có kết nối Internet cáp quang. Mạng 4G đã phủ 99,8% lãnh thổ. Tỷ lệ sử dụng giao thức Internet thế hệ 6 (IPv6) tại Việt Nam đạt tỷ lệ 60%, nằm trong nhóm 10 quốc gia dẫn đầu toàn cầu.
Thích ứng với môi trường số này, nhiều cơ quan, đơn vị trong ngành văn hóa đã chủ động ứng dụng hạ tầng số cho sản xuất, phân phối, tiêu dùng sản phẩm văn hóa; đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tăng cường số hóa để tiếp cận với người dân. Một số bảo tàng, nhà hát, đơn vị vă hóa đã bắt đầu ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong số hóa di sản, trong trưng bày, biểu diễn, giáo dục...
Trong lĩnh vực xuất bản, nhiều đơn vị đã chủ động đa dạng hóa sản phẩm, đẩy mạnh chuyển đổi từ mô hình kinh doanh truyền thống sang ứng dụng công nghệ số, đồng thời phát triển kênh thương mại điện tử nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của độc giả. Báo chí, truyền thông và xuất bản tăng cường xuất bản điện tử, kịp thời đưa thông tin, đường lối, chính sách đến người dân.
Trong giai đoạn 2026–2031, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng tới mục tiêu lớn là toàn bộ các đơn vị hoạt động văn hóa – nghệ thuật được tin học hóa và chuyển đổi số; xây dựng và duy trì các cơ sở dữ liệu lớn (Big Data) về văn hóa, nghệ thuật, gia đình và di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam như một nguồn tài nguyên dùng chung. Các cơ quan báo chí hướng tới vận hành mô hình tòa soạn hội tụ, sản xuất nội dung theo xu hướng báo chí số; các đài phát thanh, truyền hình đưa nội dung lên nền tảng số (ưu tiên các nền tảng trong nước) và bảo đảm phát sóng tối đa thời gian cho các chương trình chính trị, thông tin thiết yếu của quốc gia và địa phương.
Hơn nữa, bình đẳng giới và đa dạng văn hóa trong tiếp cận, hưởng thụ văn hóa đã và đang được chú trọng. "Không chỉ cộng đồng dân tộc thiểu số mà các nhóm xã hội khác như nhóm thanh niên, người già, người dân nông thôn, người dân thành thị, dân di cư, dân tại chỗ, những người theo tôn giáo, người có giới tính khác..., đều có quyền có những phương thức biểu đạt và hưởng thụ văn hóa, thể hiện những đặc trưng văn hóa và hệ giá trị riêng của họ", PGS.TS. Đỗ Thị Thanh Thủy nhấn mạnh.
Đồng thời, nâng cao nhận thức về đa dạng văn hóa, quyền biểu đạt văn hóa cần được bồi đắp trên nền tảng của sự tôn trọng, nói cách khác, một mặt, các cá nhân, cộng đồng có cơ hội công bằng để theo đuổi các giá trị văn hóa của riêng họ và tham gia các thực hành văn hóa mà họ mong muốn, mặt khác, họ cũng cần đảm bảo nguyên tắc cốt lõi rằng, những giá trị và thực hành văn hóa này không gây phương hại đến danh dự, nhân phẩm và quyền lợi chính đáng của các cá nhân, cộng đồng khác. Việc đảm bảo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau sẽ đưa các chủ thể văn hóa bước vào quá trình hợp tác, đối thoại, xây dựng niềm tin và chia sẻ để cùng tồn tại và phát triển thay vì tạo ra những xung đột và mâu thuẫn.

Khu triển lãm 'Việt Nam hạnh phúc' tại Trung tâm Triển lãm quốc gia (Đông Anh, Hà Nội). (Nguồn: Bộ VHTTDL)