'Vu lan báo hiếu' - thủ pháp 'khoán thủ' và bản tụng ca hiếu nghĩa của nhà thơ Quản Minh Cường
Trong dòng chảy thơ ca Việt Nam, đề tài hiếu đạo từ lâu đã trở thành một mạch nguồn thiêng liêng, bền bỉ. Hiếu không chỉ là đạo làm người mà còn là nền tảng văn hóa, là cái gốc để hình thành nhân cách và cũng là nguồn cội hun đúc nên truyền thống dân tộc. Biết bao thế hệ thi nhân đã gửi gắm đạo hiếu vào câu ca, lời thơ, từ ca dao quen thuộc 'Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra' đến những câu thơ khắc khoải, chiêm nghiệm trong thơ hiện đại. Trong mạch nguồn ấy, bài thơ 'Vu Lan báo hiếu' của Tiến sĩ Quản Minh Cường là một thi phẩm đáng chú ý, chạm đến tim người đọc.
Vu Lan báo hiếu!
Công Cha dưỡng dục hồng trần
Cha bao lần gánh muôn phần đớn đau
Như mây, như gió tan mau
Núi cao, biển rộng trước sau ân tình
Thái lai hạnh phúc quanh mình
Sơn hà, anh kiệt ân tình thiết tha
Nghĩa sâu nặng tình bao la
Mẹ trao tất cả, phương xa con về
Nhưvầng Nguyệt tròn sơn khê
Nước mắt chan chứa trọn bề yêu thương
Trong đục Mẹ tỏ mọi đường
Nguồn suối tươi mát Mẹ nhường cho con
Chảy mãi tâm sáng lòng son
Ra đi nặng gánh “nước non Cao Bằng”
Mộtmình trống trải giá băng
Lòng son khắc nhớ công hằng vô biên
Thờ thần linh, cúng tổ tiên
Mẹcười đôi mắt một miền bao dung
Kính trên, nhường dưới, hiếu trung
Cha là gương sáng tâm hùng nghĩa nhân
Cho con đạo đức vô ngần
Tròn mười, tròn chín muôn lần thiết tha
Chữ tâm, chữ phúc bao la
Hiếu vẹn tròn nghĩa hoan ca rộn ràng
Mớicũ tình Mẹ thênh thang
Là gốc, là rễ mênh mang bến bờ
Đạo là nhân nghĩa, tôn thờ
Con ghi sâu khắc mong chờ ánh dương.

Tiến sĩ Quản Minh Cường.
Tác giả đã vận dụng thủ pháp khoán thủ, một thi pháp cổ điển từng được ưa chuộng trong thơ Đường và cả trong văn học trung đại Việt Nam. Với thủ pháp này, chữ đầu tiên của mỗi câu thơ được sắp đặt công phu, để khi ghép lại theo trật tự, ta thấy hiện lên chính nhan đề của bài thơ “Vu Lan báo hiếu”. Đây là cách làm tài hoa, vừa khẳng định sự am hiểu thi pháp cổ điển, vừa gửi gắm một “mật mã nghệ thuật” cho người đọc tự khám phá. Thơ viết về hiếu đạo vốn quen thuộc, nhưng với thủ pháp khoán thủ, bài thơ trở nên khác biệt.
Ngay từ những câu mở đầu: “Công Cha dưỡng dục hồng trần/Cha bao lần gánh muôn phần đớn đau”, người đọc đã thấy chất giọng trang nghiêm, thành kính. Chữ đầu “C” trong “Công”, “C” trong “Cha” chính là những mắt xích khởi đầu cho trục chữ ẩn. Dòng chảy chữ nghĩa vừa làm nên mạch cảm xúc, vừa kiến tạo cấu trúc khoán thủ kín đáo. Cha được so sánh với “núi cao, biển rộng”, “Như mây, như gió tan mau/Núi cao, biển rộng trước sau ân tình”. Ở đây, hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ không chỉ để tôn vinh cha, mà còn nâng công cha lên tầm vóc vũ trụ, bất biến trước mọi biến thiên của nhân sinh. Trong khi đó, hình tượng mẹ lại được khắc họa bằng nét mềm mại, trữ tình “Như vầng Nguyệt tròn sơn khê/Nước mắt chan chứa trọn bề yêu thương”. Nếu cha là trụ cột, là sức mạnh dẻo dai, mẹ sẽ là ánh sáng dịu dàng, là dòng suối mát lành của tình thương.
Ở đoạn giữa, tác giả mở rộng ý thơ, hòa hiếu đạo trong không gian tâm linh: “Thờ thần linh, cúng tổ tiên/Mẹ cười đôi mắt một miền bao dung”. Trong khói hương thành kính, tình mẹ hiện lên vừa gần gũi, vừa thiêng liêng. Đây là điểm gặp gỡ giữa đời sống tâm linh dân tộc và đạo hiếu gia đình, giữa tín ngưỡng tổ tiên và tình mẫu tử bao la. Một câu thơ giàu sức ám ảnh “Chảy mãi tâm sáng lòng son/Ra đi nặng gánh nước non Cao Bằng”. Công cha nghĩa mẹ ở đây đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, để hòa nhập vào dòng chảy lịch sử, gắn liền với đất nước, với non sông. Chính sự nâng tầm ấy làm cho hiếu không chỉ là tình riêng, còn trở thành trách nhiệm chung - hiếu với cha mẹ, đồng thời cũng là hiếu với Tổ quốc.
Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi, nhiều chỗ như ca dao. Các động từ “gánh”, “trao”, “chảy mãi”, “khắc nhớ” được đặt vào đúng vị trí, làm nổi bật sự dồn nén, nhọc nhằn và bất tận của tình thương cha mẹ. Các điệp từ “ân tình”, “bao la”, “thiết tha” ngân vang như nhịp trống, như tiếng chuông trong lễ Vu Lan, nhắc nhớ mãi công ơn sinh dưỡng. Đặc sắc của bài thơ không chỉ nằm ở những hình tượng quen thuộc, mà còn ở sự gắn bó nhuần nhị giữa thủ pháp khoán thủ và nội dung hiếu đạo.
Đáng chú ý, bài thơ được viết dưới thể lục bát - thể thơ dân tộc với những quy tắc nghiêm ngặt về niêm, luật, âm, vần. Khi chữ đầu mỗi câu phải cố định để tạo thành nhan đề, độ khó càng tăng lên nhiều lần. Người viết vừa phải giữ đúng nhạc điệu lục bát, vừa khéo léo “chơi chữ”, lựa chọn ngôn từ tinh tế để bảo đảm sự hài hòa về âm vận và chiều sâu ý nghĩa. Có thể nói, đây là một “thử thách kép”, vừa duy trì chuẩn mực thi pháp, vừa kiến tạo một cấu trúc ẩn chứa mật mã nghệ thuật. Chính sự khéo léo ấy đã nâng giá trị thi phẩm lên một tầm cao mới. Không chỉ là tụng ca hiếu nghĩa, mà còn là biểu hiện tài hoa trong nghệ thuật xử lý lục bát. Người đọc cảm nhận được hai lớp ý nghĩa, bề mặt là dòng cảm xúc hiếu đạo, chiều sâu là kỹ thuật tinh vi làm cho bài thơ ngân vang lâu bền.

Có thể nói, “Vu Lan báo hiếu” của nhà thơ Quản Minh Cường là một thành công về cả tư tưởng lẫn nghệ thuật. Thơ khẳng định sức sống bất tận của đạo hiếu - nền tảng đạo lý muôn đời; đồng thời, cho thấy sự am hiểu thi pháp và sự sáng tạo tài hoa trong cách kết cấu. Đọc bài thơ, người ta không chỉ xúc động trước công cha nghĩa mẹ, mà còn thấy đạo hiếu như dòng suối bất tận nuôi dưỡng nhân cách và văn hóa dân tộc. Và hơn thế, bài thơ là minh chứng thơ ca không bao giờ chỉ để ngâm vịnh, mà còn để giáo huấn, để soi sáng, để lan tỏa. “Vu Lan báo hiếu” chính là một nén tâm hương chữ nghĩa dâng lên mùa Vu Lan, là khúc tụng ca hiếu nghĩa ngân vang trong lòng bạn đọc. Chúng ta hãy trao nhiều hơn yêu thương, luôn hiếu thuận, làm vui lòng mẹ cha khi họ vẫn còn ở bên cạnh ta.
Cảm ơn tác giả Quản Minh Cường đã mang đến “Vu Lan báo hiếu” - một thi phẩm thấm đẫm tình hiếu đạo, giàu giá trị nhân văn, góp thêm vào kho tàng thi ca Việt Nam một tiếng thơ chan chứa Chân - Thiện - Mỹ: “Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ Mẹ kính Cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Đồng thời, giúp mỗi chúng ta có những giây phút thật lắng đọng để cảm nhận sâu sắc hơn về tình cảm của bậc sinh thành thiêng liêng và bao la như biển cả, khó có thể diễn tả bằng lời.