Xúc động tri ân các 'nhà giáo đi B' – nhân chứng một thời hoa lửa
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hơn 3.000 thầy cô đã rời bục giảng, xếp lại việc riêng, lên đường vào chiến trường miền Nam, trở thành những 'chiến sĩ trên mặt trận văn hóa – giáo dục'. 'Nhà giáo đi B' là biểu tượng sáng ngời của trí tuệ, lòng dũng cảm và tình yêu Tổ quốc.
Ngày 22/8, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức gặp mặt các nhà giáo chi viện cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ.
Tham dự buổi gặp mặt có Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng; Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Lê Tấn Dũng; Chủ tịch Hội Cựu Giáo chức Việt Nam Trần Quang Quý; Chủ tịch Công đoàn Giáo dục Việt Nam Nguyễn Ngọc Ân... Đặc biệt, buổi gặp mặt tri ân có đại diện 80 nhà giáo - những nhân chứng sống của một thời hoa lửa, đại diện hơn 3.000 nhà giáo được điều động công tác giáo dục tại các tỉnh phía Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hơn 3.000 thầy cô đã rời bục giảng, xếp lại việc riêng, lên đường vào chiến trường miền Nam, trở thành những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa – giáo dục”. Họ không chỉ dạy học mà còn dựng lớp, chống giặc, thậm chí anh dũng hy sinh, để lại những bản anh hùng ca bất diệt trong lịch sử ngành Giáo dục. “Nhà giáo đi B” là biểu tượng sáng ngời của trí tuệ, lòng dũng cảm và tình yêu Tổ quốc.

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng trao Bằng ghi công, vinh danh các “nhà giáo đi B”.
Theo các tài liệu lưu trữ, từ năm 1961 đến tháng 12 năm 1974, đã có nhiều đợt cán bộ giáo dục và giáo viên với tổng cộng hơn 3.000 nhà giáo đã tình nguyện và được Bộ Giáo dục điều động đi vào chiến trường miền Nam. Mỗi người trong số họ là một câu chuyện riêng, nhưng tất cả đều chung một lý tưởng: Đem ánh sáng tri thức, khoa học, gieo mầm trí tuệ cho cán bộ, chiến sĩ và con em nhân dân vùng giải phóng ở miền Nam, góp phần đào tạo thế hệ trẻ và nuôi dưỡng khát vọng độc lập, tự do cho đồng bào vùng giải phóng; đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng nguồn nhân lực cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ; thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, của Bác Hồ.

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Lê Tấn Dũng trao Bằng ghi công, vinh danh các “nhà giáo đi B” .
Nhắc đến “nhà giáo đi B” là nhắc đến những chuyến hành quân đi bộ vượt dãy Trường Sơn hùng vĩ, hiểm trở. Họ ra đi là để lại sau lưng cả một gia đình với bố mẹ già, vợ trẻ và các con thơ vài ba tháng tuổi hoặc dăm bảy tuổi đời – lứa tuổi đang rất cần sự chăm sóc dạy bảo của cả cha và mẹ. Vào tới nơi nhận nhiệm vụ, họ phải đi vận động nhân dân cho con em đi học, vận động bà con hỗ trợ dựng lớp học bằng tranh tre, nứa lá, tìm kiếm các phương tiện dạy học, từ bảng đen đến bàn ghế đều phải tùy cơ ứng biến, linh hoạt phù hợp với từng nơi, từng chỗ... Với tình yêu học trò và lòng quyết tâm mang tri thức đến cho trẻ em và đồng bào chưa được đến trường, họ đã vượt qua tất cả.
Tại buổi gặp mặt, các đại biểu đều rưng rưng xúc động khi được nghe kể lại câu chuyện quả cảm của nhiều thầy cô giáo, điển hình là cô giáo Lê Thị Bạch Cát, quê ở Nghệ An, nguyên giáo viên trường Thể dục Thể thao Từ Sơn, Bắc Ninh. Cô đi B cuối năm 1964, nhận nhiệm vụ tại Thành đoàn Sài gòn - Gia Định, vừa là giáo viên, vừa làm công tác Đoàn. Trong chiến dịch Mậu Thân (1968), cô tham gia lực lượng biệt động vũ trang nội thành Sài Gòn. Trong một trận đánh, bị địch bao vây, cô đã quyết tử ở lại chiến đấu để đồng đội rút lui an toàn. Cô đã anh dũng hy sinh. Gần đây, cô đã được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam truy tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Các "nhà giáo đi B" xúc động ôn lại kỷ niệm một thời hoa lửa tại buổi gặp mặt.
Trong chiến đấu với địch, có nhiều nhà giáo cũng bị địch bắt làm tù binh. Họ cũng bị tra tấn dã man, nhưng với lòng yêu nước và tinh thần vững vàng, họ đã không hề khuất phục, khai báo. Câu chuyện của thầy trò nhà giáo Lý Hữu Tấn, nguyên giảng viên khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cùng người học trò của mình ở khoa Văn là một tấm gương đáng kính. Thầy đi B năm 1964, năm sau, một thầy giáo dạy Văn ở Hải Phòng là Trần Nguyên Phò, được điều động đi B. Vào Nam, hai thầy trò gặp nhau vui mừng khôn xiết. Rồi thầy trò được cùng về công tác tại Tiểu ban Giáo dục miền Nam Việt Nam. Trong một lần cùng đi công tác tại tỉnh Bến Tre, hai thầy trò đã bị địch bắt. Sau khi bị địch tra tấn dã man, chúng không khai thác được gì, bèn đưa về giam tại Trại giam Phú Quốc. Tại đây hai thầy trò đã tổ chức dạy học trong tù, tìm mọi cách che mắt địch, không chỉ dạy Văn chương mà dạy cả Lịch sử, Địa lý, Toán ở trình độ cấp 1, cấp 2. Hai thầy còn mở cả lớp “sư phạm”, bồi dưỡng phương pháp dạy học, gợi ý nội dung dạy, để các thầy giáo trẻ đó mở lớp dạy ở các lán trại khác.

Các "nhà giáo đi B" đã góp phần viết lên bản anh hùng ca trong lịch sử ngành Giáo dục.
Và rất nhiều "nhà giáo đi B" đã chiến đấu và anh dũng hy sinh nằm lại vĩnh viễn nơi chiến trường. Họ là những liệt sĩ của ngành Giáo dục. Những ký ức ấy, dù vui hay buồn, đều là mảnh ghép tạo nên bản anh hùng ca của nhà giáo Việt Nam.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, các "nhà giáo đi B" đã góp phần to lớn trong thực hiện nhiệm vụ : Xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa, nâng cao dân trí cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở các vùng giải phóng; đào tạo thế hệ trẻ có kiến thức văn hóa, khoa học, có lòng yêu nước để tiếp nối sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước; khi đất nước hòa bình có đủ trình độ, năng lực tiếp tục học tập nâng cao để xây dựng đất nước; đấu tranh chống địch trên mặt trận văn hóa, chống phá mọi âm mưu chia rẽ dân tộc, phá hoại hòa bình, thống nhất đất nước.
Chính với sự nỗ lực tuyệt vời của các nhà giáo tại chỗ cùng với sự chi viện kịp thời, nhanh chóng của Bộ Giáo dục ở miền Bắc mà chỉ trong vòng 4 tháng, tất cả các trường học ở miền Nam sau giải phóng, đã được thiết lập lại bộ máy quản lý, lãnh đạo, sắp xếp lại đội ngũ giáo viên, giảng viên và các điều kiện học tập để đồng loạt khai giảng năm học như thường lệ, các học sinh, sinh viên được đi học bình thường. Sự thành công đó, có vai trò đóng góp quan trọng của các Nhà giáo đi B.
Phát biểu tại buổi gặp mặt, tri ân, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới hơn 3.000 “nhà giáo đi B”, trong đó nhiều người đã hy sinh, nhiều người do tuổi cao sức yếu đã không còn.
Hiện nay, ngành giáo dục Việt Nam có hơn 1,2 triệu nhà giáo. Chúng ta đang ở thời kỳ đất nước hội nhập sâu rộng, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ nhưng thách thức cũng nhiều, đó là đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng, thu hẹp khoảng cách vùng miền, chuẩn bị nguồn nhân lực cho kỷ nguyên số, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
“Tôi mong mỗi thầy cô hôm nay sẽ học tập, noi gương các thế hệ nhà giáo lão thành để phát huy tinh thần yêu nước, sẵn sàng nhận nhiệm vụ khó khăn; nêu cao đạo đức nhà giáo, là tấm gương sáng cho học trò; đổi mới sáng tạo, kết hợp tri thức hiện đại với giá trị truyền thống và truyền cảm hứng, giúp học trò nuôi dưỡng khát vọng, tình yêu quê hương. Mỗi nhà giáo hôm nay hãy là một “nhà giáo đi B” của thời bình – sẵn sàng đi đến những nơi khó khăn nhất, gánh vác những việc gian khổ nhất vì học trò, vì đất nước”, Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng bày tỏ kỳ vọng.