1 vụ 'chia tay đòi tiền': Giữa 2 điều chưa biết, tòa xử người đàn ông thắng kiện

TAND huyện Phong Điền, TP Cần Thơ vừa xét xử một vụ 'chia tay đòi tiền' khá hy hữu, nguyên đơn nói là bạn nên cho bị đơn mượn 2,995 tỉ, còn bị đơn thì nói tiền đó nguyên đơn cho tiêu xài, mua xe ô tô chứ không mượn.

TAND huyện Phong Điền, TP Cần Thơ vừa xét xử sơ thẩm vụ án “chia tay đòi tiền” với số tiền gần 3 tỉ đồng. Đó là vụ tranh chấp quyền đòi lại tài sản giữa nguyên đơn là ông T và bị đơn là bà H.

Nguyên đơn: bị đơn là bạn, hỏi mượn 2,995 tỉ

Hồ sơ vụ án thể hiện, đại diện cho nguyên đơn trình bày, do có mối quan hệ bạn bè nên đầu tháng 4-2023, bà H có hỏi mượn ông T số tiền 2,995 tỉ, không có lãi suất, để phụ giúp việc kinh doanh của gia đình.

Việc mượn tiền bằng hình thức chuyển khoản từ tài khoản cá nhân của ông T mở tại ngân hàng Q đến số tài khoản của bà H cũng mở tại ngân hàng Q. Từ ngày 14-4 đến 1-7-2023, ông T đã chuyển khoản 8 lần; lần thấp nhất 10 triệu, lần cao nhất 2,2 tỉ; tổng cộng 2,995 tỉ.

Cũng theo nguyên đơn, khi mượn tiền bà H có nói khi nào ông T cần lấy lại thì điện thoại bà sẽ thu xếp trả ngay. Hiện nay ông T đã nhiều lần gọi điện yêu cầu bà H trả tiền, tuy nhiên bà mới chỉ trả cho ông 495 triệu qua chuyển khoản (hai lần trong tháng 5 và tháng 7-2023) và đến nay ông không liên lạc được với bà. Do đó ông khởi kiện yêu cầu tòa buộc bà H trả số tiền còn nợ là 2,5 tỉ.

Ngoài ra ông yêu cầu giữ nguyên biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ đối với tài sản của bà H là xe ô tô nhãn hiệu BMW để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.

 Tòa án ở Cần Thơ vừa xét xử một vụ "chia tay đòi tiền" tiền tỉ khá hy hữu. Ảnh minh họa AI.

Tòa án ở Cần Thơ vừa xét xử một vụ "chia tay đòi tiền" tiền tỉ khá hy hữu. Ảnh minh họa AI.

Bị đơn: là tiền chu cấp tiêu xài, mua xe ô tô, không phải mượn

Đại diện bị đơn trình bày, khoảng tháng 2-2019, bà H làm việc tại một công ty địa ốc và biết ông T là giám đốc công ty này. Sau một thời gian làm việc chung, bà được ông T mời ăn tối nhiều lần, ông có tâm sự đã từng có gia đình và ly hôn, sống độc thân. Sau đó, bà H nảy sinh tình cảm và đồng ý sống chung như vợ chồng với ông T.

Khoảng đầu năm 2020, ông T nói bà H xin nghỉ việc ở công ty, ở nhà tiếp gia đình mua bán, ông sẽ chu cấp tiền cho bà tiêu xài. Đến tháng 7-2020 thì bà nghỉ việc. Tháng 4-2021, ông dẫn cả gia đình bà đi du lịch và còn chụp hình chung với gia đình bà.

Đầu năm 2022, bà phát hiện ông T có “người thứ ba”, là người đã thay thế vị trí của bà tại công ty nên bà cắt đứt quan hệ với ông từ tháng 3-2022. Một năm sau, ông T nói đã chấm dứt quan hệ với “người thứ ba” nên bà H đồng ý quay lại sống chung như vợ chồng với ông.

Tháng 4-2023, bà được ông T hứa tặng một chiếc xe ô tô làm quà sinh nhật muộn. Hai bên đã bàn bạc thống nhất việc mua xe, trong đó quá trình đàm phán trước khi chốt được xe và giá cả đều là ông T quyết định, chỉ riêng tiền thì ông chuyển khoản vào tài khoản của bà để bà chuyển theo hợp đồng mua xe cho hãng xe.

Giữa năm 2023, bà phát hiện ông T vẫn còn quan hệ tình cảm với “người thứ ba”, đồng thời bà cũng biết ông chưa ly hôn với vợ nên bà đã dứt khoát chia tay.

Bà H cho rằng, việc ông T cho rằng có quan hệ bạn bè với bà là không đúng, không trung thực và nêu chưa đầy đủ lịch sử giao dịch phát sinh tại ngân hàng.

Theo đó, bà đã liệt kê các lần chuyển khoản của ông T cho bà tại các số tài khoản ở ba ngân hàng. Cụ thể năm 2020, ông T chuyển khoản cho bà tại ngân hàng C hai lần, mỗi lần 20 triệu với nội dung “ck em yeu”, “chuc mung em yeu len 2kg”.

Từ năm 2020 đến 2022, ông T chuyển khoản cho bà tại ngân hàng N bảy lần, lần thấp nhất 10 triệu, cao nhất 54 triệu, một số lần không ghi nội dung chuyển khoản, một số thì ghi như “qua 8/3 tang em yeu”, “ck ey”, “mua chenel hihi”, “gan den lich tiem ngua roi em”, “em lo kham benh me nhe”. Tổng cộng số tiền ông T chuyển cho bà H tại ngân hàng này là 147 triệu, trong đó, lần chuyển cuối tháng 5-2022, ông T chuyển cho bà H 20 triệu thì hôm sau bà chuyển trả lại ông vì cho rằng lúc này đã cắt đứt quan hệ (lần đầu).

Qua số tài khoản tại ngân hàng Q trong năm 2023, ông chuyển khoản cho bà tám lần tổng số tiền 2,995 tỉ; bà chuyển lại cho ông T hai lần tổng 495 triệu. Trong đó, riêng ngày 1-7-2023, ông T chuyển cho bà 20 triệu thì bà cũng chuyển lại cho ông 20 triệu với nội dung “phien” vì lúc này bà cho rằng đã cắt đứt quan hệ nên chuyển trả lại ông T.

Bà H cho rằng tất cả các lần ông T chuyển khoản là tặng cho và chu cấp cho bà trong thời gian chung sống như vợ chồng chứ bà không vay mượn của ông. Riêng số tiền 475 triệu bà chuyển cho ông là tiền bạn ông T vay của bà 500 triệu, bà lấy lãi trước 25 triệu.

Bà cho rằng ông T không cung cấp được chứng cứ thể hiện bà vay mượn tiền của ông nên đề nghị tòa bác yêu cầu khởi kiện của ông này.

VKS đề nghị bác yêu cầu của nguyên đơn

Phát biểu quan điểm về vụ án, đại diện VKS cho rằng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phần tranh tụng tại phiên tòa đề nghị HĐXX bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đồng thời, VKS đề nghị hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ đối với tài sản của bà H là xe ô tô nhãn hiệu BMW.

Tòa: nguyên đơn đòi lại có căn cứ

Xét xử sơ thẩm, TAND huyện Phong Điền nhận định, việc bà H thừa nhận có nhận của ông T số tiền 2,995 tỉ là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 BLTTDS. Tòa cho rằng ông T là chủ sở hữu với số tiền 2,995 tỉ đã chuyển giao cho bà H thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định pháp luật. Nội dung giao dịch không thể hiện tặng cho hay cho bà H mượn nên ông T đòi lại tài sản là có căn cứ.

Tại tòa, đại diện nguyên đơn không thừa nhận tặng cho bị đơn 2,995 tỉ. Các giao dịch giai đoạn từ năm 2020 đến 2022 sử dụng số tài khoản khác và các giao dịch đó không liên quan đến nội dung khởi kiện. Từ đó, tòa cho rằng, nguyên đơn khởi kiện dựa trên giao dịch qua lại giữa hai số tài khoản của nguyên đơn và bị đơn tại ngân hàng Q trong năm 2023, do đó không thể dựa vào các chứng cứ của bị đơn cung cấp nêu trên mà suy đoán việc ông T chuyển tiền cho bà H là để tặng cho.

Còn việc bị đơn cho rằng có cho bạn ông T mượn 500 triệu lấy lãi trước 25 triệu nên chuyển khoản 475 triệu nhưng bị đơn không có phản tố nên tòa không xem xét.

Lời khai của nhân chứng về việc ông T có đến hãng xem xe và đi cùng bà H đến nhận xe nhưng các hợp đồng, tiền cọc, giao nhận tiền đều do bà H thực hiện nên tòa không có cơ sở xem xét lời khai của nhân chứng.

Từ đó, tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn 2,5 tỉ.

NHẪN NAM

Nguồn PLO: https://plo.vn/1-vu-chia-tay-doi-tien-giua-2-dieu-chua-biet-toa-xu-nguoi-dan-ong-thang-kien-post797006.html