10 thử nghiệm tâm lý rùng rợn đến khó tin
Từ trước đến nay, có rất nhiều nhà tâm lý học và bác sĩ thần kinh nỗ lực nghiên cứu, mong muốn hiểu được sự kì diệu của bộ não con người và thậm chí qua đó, kiểm soát hành vi của con người. Sau đây là 10 thí nghiệm vô nhân đạo đến rùng mình để đạt được mục đích này.
Tony LaMadrid - Nghiên cứu của Đại học California đã yêu cầu những người tham gia nghiên cứu tâm thần phân liệt ngừng dùng thuốc. Kết quả của chương trình kinh khủng đến nỗi gần như tất cả các bệnh nhân tham gia đều tái phá bệnh và một người đã tự tử.
Tony LaMadrid, một nam giới 23 tuổi có tiền sử trầm cảm và tâm thần phân liệt, đã được điều trị tại Khoa Tâm thần Trung tâm UCLA từ 1985 đến 1989. Trong suốt thời gian đó, anh vừa là một bệnh nhân vừa tham gia tích cực trong một nghiên cứu tâm thần của trường đại học. Nghiên cứu này mang tên "Các quá trình phát triển trong rối loạn tâm thần phân liệt" và được chỉ đạo bởi nhà tâm lý học Keith H. Nuechterlein và nhà tâm thầ học Michael Gitlin. Mục đích của nghiên cứu này là thu thập dữ liệu về cách thức và lý do tái phát bệnh tâm thần phân liệt. Thử nghiệm này yêu cầu bệnh nhân phải ngừng sử dụng thuốc để đánh giá tác động của thuốc lên bệnh nhân, lên người thường và cách hoạt động của não bộ. Thử nghiệm chỉ liệt kê đại khái các tác dụng phụ tiềm ẩn của việc dừng thuốc rằng tình trạng bệnh nhân có thể cải thiện, xấu đi hoặc giữ nguyên. Tuy nhiên, lý do gây ra khả năng tái phát bệnh lại không được làm rõ.
Các bệnh nhân trong quá trình sử dụng thuốc phản ứng rất tiêu cực đối với thí nghiệm. Cuộc thử nghệm đã có một kết quả thảm khốc khi hơn 90% bệnh nhân bị tái phát bệnh rất nghiêm trọng trong quá trình thử nghiệm. Kết quả cuộc thử nghiệm cũng không thực sự chính xác bởi nhiều bệnh nhân, do sẵn không thích dùng thuốc, thường nói dối về những ảnh hưởng của thí nghiệm đối với họ. Những nhà thử nghiệm không bao giờ phục hồi thuốc hay đi sâu hơn vào đời sống của các nạn nhân để điều tra thêm. Khoảng sáu năm sau cuộc thử nghiệm, Tony nhảy lầu tự tử.
Dự án QKHILLTOP - Một dự án khác của CIA từ thập kỷ 50 nhằm nghiên cứu các kỹ thuật tẩy não để phát triển các phương pháp thẩm vấn mới của Trung Quốc. Những người tham gia đã phải chịu các biện pháp kiểm soát tâm trí với “hóa học, sinh học, và phóng xạ” Chưa hết, họ còn bị giam giữ, bị đói, bị tra tấn, tẩy não và thôi miên trong suốt dự án.
Năm 1954, CIA bắt đầu một dự án mang tên QKHILLTOP nhằm nghiên cứu các kỹ thuật tẩy não thẩm vấn của Trung Quốc lúc bấy giờ. Hầu hết các nghiên cứu này được thực hiện bởi các chương trình nghiên cứu sinh thái con người của trường Đại học Cornell dưới sự giám sát của tiến sĩ Harold Wolff. Tiến sĩ Wolff yêu cầu CIA cung cấp cho ông bất cứ thông tin nào họ có thể tìm thấy về sự đe dọa, áp lực, giam cầm, bỏ đói, sỉ nhục, tra tấn, “tẩy não” và thôi miên dù có dưới tác động của các chất hóa học hay không. Nhóm nghiên cứu sau đó sẽ tập hợp, đối chiếu, phân tích và thu thập thông tin này và thực hiện các cuộc điều tra thử nghiệm để phát triển các kỹ thuật mới về sử dụng trí thông minh tấn công phòng thủ. Ông cũng yêu cầu có những “đối tượng thích hợp” (Con người) để nhóm của ông có thể thí nghiệm những thông tin và kỹ thuật này. Những kỹ thuật này thường liên quan đến các loại thuốc bí mật và các thủ tục gây tổn thương não khác nhau. Và để thực hiện các thí nghiệm này, ngoài các đối tượng, ông cũng yêu cầu một nơi thích hợp.
Kết quả cuộc thí nghệm tệ đến các nhà nghiên cứu CIA bị chỉ trích là “một đám ngu xuẩn mày mò khoa học giả tưởng. Những cuộc tra tấn, hám hiếp và bạo lực lên cả người lớn và trẻ nhỏ dẫn đến nhiều người tham gia trở nên điên loạn cả đời.
Bệnh nhân Emma Eckstein và Bác sĩ Sigmund Freud - vị bác sĩ người Đức đã điều trị bệnh nhân Emma vì chứng cuồng loạn và thủ dâm quá mức, mặc dù Emma chỉ khám bệnh dạ dày và trầm cảm nhẹ. Ông đã thực hiện một ca mổ cấp tiến Emma chỉ với một chút chất gây tê cục bộ và cocaine. Khi cuộc phẫu thuật kết thúc thamr bại, Freud sợ hãi và chạy trốn khỏi hiện trường cuộc giải phẫu.
Năm 27 tuổi, Emma Eckstein tới bác sĩ Sigmund Freud để điều trị bệnh dạ dày và trầm cảm nhẹ. Nhưng Freud chẩn đoán Emma bị chứng cuồng loạn và tin rằng cô đã thủ dâm quá mức. Thời bấy giờ, thủ dâm được coi là một bệnh tâm thần nguy hiểm, nên Freud bắt đầu đánh giá phân tích tâm lý của Emma. Cuộc đánh gia này kéo dài 3 năm.
Freud cho rằng thói quen thủ dâm của Emma khiến cô đau chân nghiêm trọng, ông cũng cho rằng mô của mũi và bộ phận sinh dục có liên kết với nhau. Vậy nên chỉ cần loại bỏ phần trung gian này là xong. Freud cùng một bác sĩ khác, bác sĩ Wilhelm Fliess, đã thực hiện phẫu thuật lên Emma. Cô chỉ được tiêm 1 mũi gây tê cục bộ và cocaine trước khi bị đốt điện cuốn mũi. Cuộc phẫu thuật thảm bại, khiến cô chảy máu mũi rất nhiều và thường xuyên. Freud để lại 50cm gạc bông trong khoang mũi của Emma, và việc loại bỏ miếng gạc đó đã khiến mặt Emma bị biến dạng vĩnh viễn. Freud đã hoảng sợ trốn chạy ngay trong quá trình giải phẫu.
Sau đó, Freud biện minh rằng các cơn xuất huyết sau mổ của Emma là do ảo tưởng của bệnh cuồng loạn “mong ước được yêu thương cùng căn bệnh của cô ấy” và hòng “lấy lại niềm yêu thương [của Freud]". Dù vậy, Emma vẫn tiếp tục cuộc phân tích tâm lý với Freud cho đến khi cô hồi phục lại hoàn toàn chức năng cơ mặt. Sau đó cô tự thực hiện nghiên cứu tâm thần học.
Liệu pháp giật điện trẻ em - Tiến sĩ Lauretta Bender của Bệnh viện Creedmoor ở New York đã sử dụng phương pháp trị liệu bằng điện cho trẻ em mắc những vấn đề xã hội. Thí nghiệm này đã sử dụng biện pháp giật điện lên hơn 100 đứa trẻ mỗi ngày với tổng cộng 20 lần “điều trị”. Kết quả, các em bị rối loạn lo âu nặng hơn và phát hiện cơ thể méo mó, biến dạng.
Vào những năm 50 và 60, người đứng đầu khoa tâm thần trẻ em tại Bệnh viện Bellevue ở thành phố New York, bà Lauretta Bender, đã tiến hành nghiên cứu sâu rộng về chứng tự kỷ. Bà tin rằng chứng tự kỷ thường là một trong những dấu hiệu đầu tiên của một loại bệnh tâm thần phân liệt. Bà bắt đầu những thí nghiệm lên những đứa trẻ tự kỷ bằng biện pháp điều trị điện động mạch cho bệnh nhân tự kỷ. Các phương pháp của Bender bao gồm phỏng vấn và phân tích một đứa trẻ nhạy cảm trước một nhóm lớn, sau đó áp dụng một lực nhẹ vào đầu của đứa trẻ. Theo lý thuyết, những đứa trẻ nào chuyển động với áp lực đều cho thấy những dấu hiệu sớm của bệnh tâm thần phân liệt. Các thí nghiệm cũng bao gồm liệu pháp sốc insulin, tức cho trẻ dùng quá liều insulin, khiến chúng rơi vào trạng thái hôn mê ngắn. Bà cũng đã cho các bệnh nhân uống các loại thuốc chống loạn thần như Thorazine. Cô cũng đã cố gắng cho trẻ tự kỷ uống LSD (chất kích thích) mỗi ngày trong chín tháng hoặc nhiều hơn, nhưng quyết định bọn trẻ đã trở nên "lo lắng hơn." Vào thời điểm liệu pháp này bị ngăn chặn, Bender đã điều trị giật điện động mạch cho ít nhất 100 trẻ em từ 3 tuổi đến 12 tuổi, với một số báo cáo cho biết tổng con số có thể gấp đôi.
Kết quả của những thí nghiệm kinh hoàng không kém gì chính thí nghiệm đó. Tình trạng của trẻ chỉ trở nên tồi tệ hơn sau khi điều trị. Một bệnh nhi 6 tuổi từ tính cách nhút nhát và rụt rè đã ngày càng trở nên tăng động và bạo lực. Một nữ bệnh nhi 7 tuổi sau năm cuộc điều trị điện giật đã phải chịu chứng rối loạn tâm lý. Một trong những bệnh nhi của bà Bender đã trở nên hung hăng quá thái sau 20 lần điều trị như vậy. Về sau, bệnh nhi này trở thành hung thủ của nhiều vụ giết người. Nhiều bệnh nhân khác cũng phải ngồi tù vì vướng vào hàng loạt các tội lớn nhỏ khi trưởng thành. Sau này, có hai nhà tâm lý học đã tiến hành nghiên cứu 50 bệnh nhi của Bender và kết luận rằng gần như tất cả các bệnh nhi đều bệnh nặng hơn sau “liệu pháp” và một số đã tự tử sau khi điều trị.
Giải phẫu chuyển đổi giới tính - David Reimer, một cậu bé người Canada, đã bị hủy hoại bộ phận sinh dục trong một tai nạn cắt bao quy đầu. Tiến sĩ John Money thuyết phục bố mẹ của Reimer khi còn bé rằng họ nên cho anh thực hiện phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Kết quả là, mối quan hệ giữa anh và bố mẹ trở nên tệ hại mãi mãi, anh thất nghiệp và phải chịu nhiều vấn đề tâm lý khác. Cuối cùng, David đã tự kết liễu bản thân bằng súng.
Năm 1965, David (tên ban đầu là Bruce) và Brian là hai anh em sinh đôi, sinh ra ở Winnipeg, Manitoba. Sáu tháng sau, cả hai anh em đều bị chẩn đoán bằng mắc chứng hẹp bao quy đầu. Khi được gợi ý đi cắt bao quy đầu vào năm 7 tuổi, năm 1966, vị bác sĩ tiết niệu đã thực hiện phẫu thuật Bruce bằng phương pháp không chính thống, đó là dùng dao đốt. Quy trình phẫu thuật thất bại và làm cho dương vật của Bruce bỏng quá mức điều trị. Các bác sĩ sau đó đã chọn không phẫu thuật với người anh em song sinh, người đã may mắn thay điều trị được chứng hẹp bao quy đầu sau này mà không cần phẫu thuật.
Cặp cha mẹ, vì quan tâm đến hạnh phúc tương lai và khả năng tình dục của con mình, đã đưa Bruce đến gặp bác sĩ John Money tại Bệnh viện Johns Hopkins ở Baltimore năm 1967. Bác sĩ Money là nhà tâm lý học và tiên phong trong lĩnh vực phát triển tình dục và định hướng giới tính. Ông là người đề xướng ý tưởng “thuyết trung lập giới tính” - rằng nhận dạng giới tính phát triển chủ yếu là kết quả của nhận thức từ xã hội thời thơ ấu và có thể được thay đổi giới tính bằng nhưng hành vi can thiệp phù hợp.
Bác sĩ John Money và đội của ông thuyết phục bố mẹ Reimer rằng họ nên cho anh thực hiện phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Khi mới 22 tháng tuổi, Bruce phải trải qua cuộc phẫu thuật cắt bỏ hai bên tinh hoàn và được cấy một âm hộ thô sơ bộ. Bruce được tái định hướng giới tính thành phụ nữ và đổi tên thành Brenda. Bác sĩ Money tiếp tục giám sát và hỗ trợ anh về mặt tâm lý trong khoảng một thập niên để đánh giá kết quả.
Ông tự thấy kết quả rất tích cực. Tuy nhiên, trong những chuyến thăm bác sĩ Money, bố mẹ Bruce thường nói dối và Bruce thấy những chuyến tái khám gây ra tái chấn thương tâm lý hơn là điều trị.
Bruce không tự nhận mình là phụ nữ. Anh bị đồng nghiệp và bạn bè bắt nạt và tẩy chay. Anh không hề cảm thấy như một phụ nữ ngay cả với những bộ cánh váy điệu đà hay hoocmon nữ. Năm 13 tuổi, Bruce muốn tự tử và đe dọa sẽ tự vẫn nếu bị bắt gặp bác sĩ Money một lần nữa. Vào ngày 4 tháng 5 năm 2004, Bruce lái xe tới bãi đậu xe của cửa hàng tạp hóa tại quê nhà Winnipeg và tự bắn vào đầu bằng một khẩu súng đạn ghém cưa ngắn nòng ở tuổi 38.