3 trụ cột hiện thực hóa khát vọng tăng trưởng 2 con số
Yếu tố quyết định tốc độ và chất lượng tăng trưởng không còn là vốn và lao động rẻ mà là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Để hiện thực hóa khát vọng xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đã đề ra mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân đạt từ 10%/năm trở lên trong giai đoạn 2026-2030.
Dự thảo nhấn mạnh trong nhiệm kỳ tới, đất nước cần xác lập mô hình tăng trưởng mới, gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặc biệt là lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN, ĐMST&CĐS) làm động lực chính để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng nêu trên.
Theo PGS-TS Đỗ Phú Trần Tình, Viện trưởng Viện Phát triển chính sách ĐHQG-HCM, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ba trụ cột KHCN, ĐMST&CĐS chính là yếu tố quyết định tốc độ và chất lượng tăng trưởng, mở ra kỷ nguyên phát triển nhanh, bền vững và thịnh vượng cho Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và các đại biểu tham quan triển lãm những thành tựu nổi bật trong hai lĩnh vực y tế, giáo dục trong khuôn khổ Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện bốn nghị quyết của Bộ Chính trị, sáng 16-9. Ảnh: QH
Tăng trưởng dựa vào khoa học công nghệ
. Phóng viên: Ông đánh giá mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026-2030 thể hiện khát vọng thế nào của đất nước? Đâu là cơ sở thực tiễn và dư địa để đặt ra mục tiêu mang tính bứt phá như vậy?
+ PGS-TS Đỗ Phú Trần Tình: Để đạt mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, chúng ta phải đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 10%/năm trong 20 năm tới. Đây không chỉ là khát vọng phát triển mà còn thể hiện quyết tâm xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
Kinh nghiệm phát triển thành công của bốn “con rồng châu Á” gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore giai đoạn 1960-1990 là bài học lớn cho Việt Nam tăng tốc trong thời gian tới.
Ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tạo ra động lực kép cho tăng trưởng nhanh và bền vững, nhờ nâng năng suất thông qua tự động hóa, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI) và Internet kết nối vạn vật (IoT), đồng thời sử dụng hiệu quả, tối ưu năng lượng, nguyên liệu đầu vào…
Đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới, với thế và lực ngày càng tăng lên, cùng niềm tin, sự đoàn kết, đồng lòng của toàn dân tộc và một chiến lược phát triển đúng đắn, tôi tin rằng chúng ta có thể đạt được mục tiêu trên.
Điều này càng được củng cố khi chưa đến một năm qua, Bộ Chính trị đã ban hành bộ tứ nghị quyết trụ cột gồm Nghị quyết 57, 59, 66, 68 và ba nghị quyết chuyên đề gồm Nghị quyết 70, 71 và 72. Qua đó, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy hệ thống và định hướng phát triển đúng đắn trong bối cảnh mới.

PGS-TS Đỗ Phú Trần Tình, Viện trưởng Viện Phát triển chính sách ĐHQG-HCM, Trường ĐH Kinh tế - Luật. Ảnh: LÊ THOA
. Dự thảo văn kiện nhấn mạnh “xác lập mô hình tăng trưởng mới” trên nền tảng KHCN, ĐMST&CĐS. Ông đánh giá thế nào về vai trò của ba trụ cột này trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số?
+ Xác lập mô hình tăng trưởng mới trên nền tảng KHCN, ĐMST&CĐS thể hiện sự kịp thời và đúng đắn trong việc hướng đến mục tiêu tăng trưởng hai con số trong những thập niên tới.
Ngày nay, yếu tố quyết định tốc độ và chất lượng tăng trưởng không còn là vốn và lao động rẻ mà là KHCN, ĐMST&CĐS. Ba yếu tố này trực tiếp nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), dịch chuyển cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào, đồng thời giảm phát thải và rủi ro tài nguyên.
Ở cấp doanh nghiệp, công nghệ số, tự động hóa và phân tích dữ liệu lớn giúp tối ưu vận hành, rút ngắn chuỗi cung ứng, tiếp cận tốt hơn thị trường toàn cầu.
Ở cấp ngành, công nghệ xanh - số (IoT, AI, điện toán đám mây, vật liệu mới, pin…) đang mở đường phát triển cho công nghệ chiến lược, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp thông minh, logistics thông minh và dịch vụ số xuyên biên giới.
Ở cấp quốc gia, một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo năng động giúp Việt Nam nâng cấp chuỗi giá trị, từ gia công sang thiết kế - sở hữu trí tuệ, tạo dư địa tăng trưởng dài hạn, giúp quốc gia vượt qua bẫy thu nhập trung bình.
Điều này càng được khẳng định bởi giải Nobel Kinh tế năm 2025 nghiên cứu về vai trò của đổi mới sáng tạo trong tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc một xã hội dám thay đổi để phát triển, giúp đưa ra bài học cho Việt Nam có thể tự tin chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa vào lao động rẻ sang xác lập mô hình tăng trưởng mới dựa trên nền tảng KHCN, ĐMST&CĐS.

Thủ tướng cùng các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp tại một tọa đàm về Nghị quyết 68 hồi cuối tháng 5. Ảnh: VGP
Cần giải pháp đột phá chiến lược cho kinh tế tư nhân
. Vậy để đạt được mục tiêu tăng trưởng hai con số, theo ông, còn cần thêm những yếu tố nào khác?
+ Để đạt mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết, phải triển khai hiệu quả Nghị quyết 66 bởi đây là “bệ đỡ thể chế” cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Nếu KHCN, ĐMST&CĐS là động cơ thì Nghị quyết 66 là bộ vi điều khiển đảm bảo luật lệ rõ ràng, thực thi nhất quán, chi phí tuân thủ thấp, giảm rủi ro pháp lý, khuyến khích đổi mới, giải phóng nguồn lực xã hội. Từ đó, nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) - yếu tố cơ bản của tăng trưởng nhanh và bền vững.
Nghị quyết 68 cũng đã nâng tầm vai trò của kinh tế tư nhân, khẳng định đây là một trong những động lực quan trọng nhất cho sự phát triển của đất nước. Trong bối cảnh đất nước đang đặt ra mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045, việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho tăng trưởng cao và bền vững trong dài hạn là hết sức cần thiết. Do vậy, khu vực kinh tế tư nhân cần những quan điểm và giải pháp đột phá mang tính chiến lược và khả thi nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, chính sách, nâng cao năng lực cạnh tranh…
Về mặt quan điểm, kinh tế tư nhân phải được xác định là một trong những trụ cột chính để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh địa chính trị thế giới biến động phức tạp. Cần nghiên cứu tiến tới hiến định hóa vai trò kinh tế tư nhân.



Xác lập mô hình tăng trưởng mới trên nền tảng KHCN, ĐMST&CĐS thể hiện sự kịp thời và đúng đắn trong việc hướng đến mục tiêu tăng trưởng hai con số trong những thập niên tới. Ảnh: BTC ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TP.HCM
Theo tôi, chúng ta nên xác định vai trò trụ cột của kinh tế tư nhân trong Hiến pháp để làm cơ sở xây dựng Luật Kinh tế tư nhân như một đạo luật nền tảng, định vị rõ vai trò, quyền và nghĩa vụ của khu vực này trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, triển khai đồng bộ chiến lược nâng cao năng lực nội sinh của khu vực kinh tế tư nhân thông qua hỗ trợ đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ khuyến khích liên kết giữa doanh nghiệp tư nhân với các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp nhà nước và chính quyền địa phương.
Cuối cùng, việc khai thác tiềm năng về nắm bắt cơ hội mới thông qua hội nhập quốc tế là yếu tố không thể bỏ qua. Từ vị thế “tham gia”, Việt Nam đã trở thành quốc gia “kiến tạo” trong nhiều tiến trình quốc tế.
Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới khẳng định định hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng, đặc biệt trong các lĩnh vực thương mại số, tiêu chuẩn carbon và logistics thông minh.
Nhờ mạng lưới FTA rộng, Việt Nam cần tiếp tục củng cố vai trò mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đồng thời nâng cao năng lực nội địa hóa công nghệ và chuẩn mực quản trị. Đây là cơ hội lớn để bước vào kỷ nguyên mới thành công.
. Xin cảm ơn ông.
Gỡ rào cản thể chế, đưa tăng trưởng kinh tế bền vững
Để KHCN, ĐMST&CĐS thực sự trở thành động lực quyết định tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế quốc gia, tôi cho rằng chúng ta cần triển khai đồng bộ các giải pháp để đạt được các mục tiêu mà Nghị quyết 57 đã đề ra. Trong đó, tuyên truyền thực chất và hiệu quả hơn nữa để nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là người dân và doanh nghiệp về vai trò của phát triển KHCN, ĐMST&CĐS đối với nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Các quy định pháp luật về KHCN, ĐMST&CĐS, đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế, đất đai… cần được khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực nhằm tạo động lực tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Đồng thời, phát triển hệ thống các trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, tập trung cho công nghệ chiến lược. Phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo.
Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ.
Đặc biệt, theo tôi, cần đẩy mạnh mô hình hợp tác ba nhà (Nhà nước - nhà trường/viện - nhà doanh nghiệp) trong nghiên cứu, chuyển giao và thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Có các chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, đầu tư cho chuyển đổi số, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, quản trị doanh nghiệp. Ngoài ra, tăng cường đầu tư, đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển KHCN, ĐMST&CĐS quốc gia, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
PGS-TS ĐỖ PHÚ TRẦN TÌNH
Nguồn PLO: https://plo.vn/3-tru-cot-hien-thuc-hoa-khat-vong-tang-truong-2-con-so-post880973.html











