3 yếu tố ảnh hưởng tới bệnh cận thị và các biện pháp can thiệp
Trong khi dịch COVID-19 còn bộn bề thì bệnh cận thị có nguy cơ bị bỏ quên. Hơn 2 năm kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát, giới nhãn khoa đã đưa ra những đúc kết sau đây với mục tiêu phòng chống cận thị trong đại dịch.
Tạp chí nhãn khoa Châu Á –Thái Bình Dương số 11, tháng 2/2022 vừa công bố điểm lại dịch tễ và công tác phòng chống cận thị của các nước trong khu vực. Tuy không có số liệu của Việt Nam nhưng hy vọng chúng ta sẽ nhìn thấy mình trong bối cảnh chung của các nước châu Á đang phát triển, đồng nhất về địa lý, văn hóa cũng như bệnh cận thị trên phương diện dịch tễ và y tế công cộng. Sau đây là những yếu tố ảnh hưởng tới bệnh cận thị và các mô hình can thiệp.
NỘI DUNG:
1.Giảm áp lực học tập
2.Tăng thời gian hoạt động ngoài trời
3. Giảm tần suất và thời lượng việc sử dụng thiết bị kỹ thuật số
4.Các mô hình can thiệp và ứng dụng lâm sàng để kiểm soát cận thị
Mời xem video được quan tâm:
1.Giảm áp lực học tập
Trẻ em bị cận thị có liên quan đến việc đi học. Khi hệ thống trường học phát triển, nhiều trẻ em được đi học hơn, tỷ lệ mắc cận thị sau 12 tuổi đi học tăng lên khoảng 20%. Trong một hệ thống trường học, trẻ em đi học nhiều năm hơn có xu hướng bị cận thị nhiều hơn và nếu quan tâm đến một cấp học nhất định thì trẻ em đạt thành tích cao hơn có xu hướng mắc bệnh cận thị nhiều hơn, tương tự với trẻ theo nhiều dòng học hoặc lớp học hơn. Sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh cận thị trong thời gian đi học chủ yếu là do sự gia tăng tiếp xúc với các yếu tố rủi ro của môi trường học tập chứ không phải do tuổi tác gia tăng.
2.Tăng thời gian hoạt động ngoài trời
Trẻ em dành nhiều thời gian ở ngoài trời hơn giảm được nguy cơ cận thị. Cơ chế này đã được xác định trong các nghiên cứu trên thực nghiệm cận thị ở động vật: Do tăng giải phóng dopamine từ võng mạc nhờ ánh sáng ngoài trời mà dopamine lại có tác dụng làm chậm tốc độ kéo dài trục nhãn cầu. Có một số bằng chứng cho thấy cơ chế này cũng có thể áp dụng cho con người. Khả năng tăng thời gian ở ngoài trời để làm chậm sự khởi phát của cận thị đã được chứng minh trong các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng RCT và trong quá trình thử nghiệm trên toàn cầu. Thời gian hoạt động ngoài trời cũng ảnh hưởng đến sự tiến triển của cận thị cho dù hiện vẫn đang gây tranh cãi.
Tầm quan trọng của việc tiếp xúc với ánh sáng trong thời gian ở ngoài trời đã làm hồi sinh sự quan tâm đến điều kiện ánh sáng trong các phòng học. Một báo cáo từ Trung Quốc đã nêu những tác động phòng ngừa chính của việc tăng cường độ ánh sáng trong lớp học, tác động có hại của cường độ ánh sáng yếu trong các lớp học mẫu giáo. Nếu được xác nhận, những quan sát này đưa ra một số biện pháp can thiệp đơn giản để kiểm soát cận thị, bao gồm từ ánh sáng lớp học tiêu chuẩn đến việc nâng cấp hệ thống ánh sáng phòng học. Cường độ ánh sáng có thể không phải là thông số quan trọng duy nhất vì gần đây có báo cáo cho rằng việc tiếp xúc nhiều với ánh sáng đỏ mức độ thấp trong một số tình huống cũng có khả năng ngăn ngừa sự tiến triển của cận thị.
3. Giảm tần suất và thời lượng việc sử dụng thiết bị kỹ thuật số
Một câu hỏi thường được đặt ra là liệu việc sử dụng các thiết bị kỹ thuật số có làm gia tăng bệnh cận thị không? Tuy nhiên, trước khi các thiết bị kỹ thuật số trở nên phổ biến thì tỷ lệ mắc bệnh cận thị đã cao sẵn đối với thanh niên vào những năm 1980 ở Đài Loan, Hồng Kông, và Singapore và vào những năm 1990 ở Trung Quốc đại lục nên thiết bị này không thể đóng một vai trò quan trọng trong việc bùng phát cận thị.
Vậy các thiết bị kỹ thuật số đóng vai trò nào trong việc gia tăng tỷ lệ mắc bệnh gần đây? Các bằng chứng hiện nay còn mâu thuẫn. Dữ liệu từ Hồng Kông (Trung Quốc) cho thấy có rất ít sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh cận thị có thể liên quan đến việc gia tăng sử dụng các thiết bị kỹ thuật số trong 20 năm qua. Ngược lại, dữ liệu từ Đài Loan (Trung Quốc) đã ghi nhận sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh gần đây do các thiết bị trên và qui kết là nguyên nhân chính. Vào năm 2019, Dirani và cộng sự đã công nhận rằng thời gian sử dụng màn hình kỹ thuật số có thể trở thành yếu tố nguy cơ duy nhất có thể thay đổi được đối với bệnh cận thị, gây tăng khối lượng công việc nhìn gần và giảm thời gian ở ngoài trời. Đã có hai đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp gần đây liên quan đến vấn đề này. Nghiên cứu đầu tiên kết luận rằng không có mô hình liên kết rõ ràng. Hiển nhiên, cần phải nghiên cứu thêm.
Nếu nghiên cứu trong tương lai thiết lập mối liên hệ nhân quả rõ ràng, có vẻ như việc hạn chế sử dụng thiết bị có thể chỉ đơn giản là khiến trẻ em quay trở lại các kiểu hành vi trước đây, vốn đã khiến chúng bị cận thị. Ngoài ra, nếu thói quen dành nhiều thời gian trong nhà vẫn tồn tại, ta vẫn nên dùng các biện pháp tích cực để khuyến khích trẻ ra ngoài. Do đó, nếu không có các biện pháp bổ sung, việc hạn chế sử dụng thiết bị kỹ thuật số có thể ít tác động đến bệnh cận thị, mặc dù nó có thể mang lại những lợi ích xã hội khác. Đến đây bạn đọc có thể thấy mông lung bởi có dư luận ồn ào là ánh sáng xanh trong các thiết bị kỹ thuật số gây ra cận thị và có thể là đục thể thủy tinh và thoái hóa hoàng điểm nữa. Vậy nên qui tội cho thiết bị kỹ thuật số hay ánh sáng xanh trong chúng là thủ phạm của việc tăng phi mã cận thị trong giới trẻ vẫn cần những thống kê thuyết phục hơn nữa. Mặc dù vậy, việc "kéo" trẻ tránh xa các thiết bị điện tử vẫn luôn cần thiết.
4.Các mô hình can thiệp và ứng dụng lâm sàng để kiểm soát cận thị
- Hiện nay có một số ứng dụng lâm sàng có thể kiểm soát được sự tiến triển của bệnh cận thị:
Các phương pháp quang học bao gồm: phương pháp chỉnh quang và các thiết kế kính áp tròng và kính áp tròng khử tiêu cự.
Phương pháp dược lý duy nhất đã trở thành một phần của thực hành lâm sàng là sử dụng atropine, đặc biệt ở liều thấp.
Tất cả các phương pháp trên có khả năng làm giảm ít nhất 50% sự tiến triển trong vài năm. Do đó, các can thiệp lâm sàng hiện nay có thể đáp ứng nhu cầu kiểm soát sự tiến triển của cận thị. Tuy nhiên kiểm soát cận thị số cao và cách tiến hành là thách thức then chốt trong tương lai.
- Mô hình can thiệp:
Các can thiệp nhằm ngăn ngừa sự khởi phát của cận thị dựa trên thời gian hoạt động ngoài trời ngày càng được ưa chuộng, hiện đã được triển khai một cách hệ thống ở Đài Loan (Trung Quốc) và Singapore cùng với một số thành công nhưng tỷ lệ mắc cận thị vẫn ở mức cao so với tiêu chuẩn quốc tế.
Ở Trung Quốc đại lục, cho đến gần đây, việc phòng chống cận thị chủ yếu dựa vào các bài tập mắt nhưng những bài tập này vẫn chưa đủ để ngăn chặn dịch bệnh.
Cách tiếp cận ở Đài Loan (Trung Quốc) và Singapore có sự khác biệt đáng kể. Ở Singapore, người ta chú trọng đến trách nhiệm của cha mẹ. Trong khi đó ở Trung Quốc về cơ bản là dựa vào trường học và liên quan đến những thay đổi sâu rộng đối với trường học, các chương trình phụ trợ, tạo điều kiện để tăng thời gian hoạt động ngoài trời. Riêng ở Nhật Bản và Hàn Quốc người ta rất ít quan tâm chính thức đến việc theo dõi hoặc ngăn ngừa cận thị.
Mời xem video được quan tâm:
TS.BS. Hoàng Cương (Bệnh viện Mắt TW)