33 triệu lao động có cơ hội tham gia loại hình bảo hiểm mới với nhiều lợi ích
Người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động tham gia bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện thì khi bị tai nạn sẽ được giám định mức suy giảm khả năng lao động; trợ cấp một lần, trợ cấp hằng tháng, trợ cấp phục vụ; hỗ trợ phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang lấy ý kiến nhân dân dự thảo Nghị định quy định về bảo hiểm xã hội tai nạn lao động theo hình thức tự nguyện đối với người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động.
Nhiều người lao động làm việc không theo hợp đồng bị tai nạn lao động nghiêm trọng, cần hỗ trợ để giảm bớt những khó khăn
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động chiếm đa số trong lực lượng lao động của nước ta hiện nay (tính đến hết quý I năm 2023 là 33 triệu người), góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, đang có nhiều người lao động trong khu vực này bị tai nạn lao động nghiêm trọng trong quá trình lao động. Chỉ tính riêng số người làm việc không theo hợp đồng lao động bị chết do tai nạn lao động trong 5 năm qua, bình quân mỗi năm là trên 2.000 người (gấp gần 2 lần khu vực người lao động có quan hệ lao động).
Khi bị tai nạn lao động họ cũng cần được chữa trị và có các khoản hỗ trợ để giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định từ Bộ luật lao động 2012, Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 đã quy định rộng hơn về chính sách của nhà nước trong việc chủ động phòng ngừa tai nạn lao động, áp dụng cho cả những người làm việc không theo hợp đồng lao động; đồng thời tại điểm c khoản 3 Điều 6 Luật an toàn, vệ sinh lao động quy định: "Người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động có quyền tham gia bảo hiểm tai nạn lao động theo hình thức tự nguyện do Chính phủ quy định".
Cần xây dựng các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện về tai nạn lao động
"Bảo hiểm tai nạn lao động theo hình thức tự nguyện" hiện đã có các sản phẩm bảo hiểm thương mại về tai nạn lao động ở Việt Nam đang được các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp qua hình thức bảo hiểm sức khỏe theo Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết Luật này, góp phần thực hiện chính sách bảo hiểm tai nạn lao động theo hình thức tự nguyện.
Tuy nhiên, do bảo hiểm thương mại với mục tiêu lợi nhuận, nên có những hạn chế nhất định trong việc thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh cho người bị nạn và thân nhân của họ (như thiếu chế độ chi dài hạn để bù đắp tổn thất về thu nhập; người nghèo thường không có điều kiện tham gia; phải đóng theo thời hạn cam kết ngay cả khi không có việc làm...).
Bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với tai nạn lao động ở Việt Nam hiện chưa có. Vì vậy, cần xây dựng các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện về tai nạn lao động, trên cơ sở khắc phục các hạn chế của bảo hiểm thương mại, đồng thời kế thừa tính ưu việt bảo hiểm xã hội bắt buộc về tai nạn lao động trong việc bảo đảm an sinh xã hội.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, việc ban hành Nghị định quy định về bảo hiểm xã hội tự nguyện về tai nạn lao động cho người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động là cần thiết, góp phần đồng bộ các chính sách trong bảo đảm an sinh xã hội theo quy định tại Điều 34 và Điều 59 của Hiến pháp năm 2013.
3 chế độ người lao động tham gia bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện được hưởng
Dự thảo quy định 3 chế độ cơ bản mà người lao động tham gia bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện được hưởng, tương tự như tham gia BHXH bắt buộc.
Dự kiến sau một thời gian thực hiện sẽ tổng kết, đánh giá để mở rộng, bổ sung thêm các chế độ khác cho phù hợp. Các chế độ được quy định gồm có:
1- Giám định mức suy giảm khả năng lao động (Điều 5 của dự thảo);
2- Chế độ trợ cấp một lần, trợ cấp hằng tháng và trợ cấp phục vụ (Điều 6,7, 8 và 9 của dự thảo);
3- Hỗ trợ phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình (Điều 10 của dự thảo).
2 trường hợp cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả phí giám định
Theo dự thảo, người lao động bị tai nạn lao động chủ động đi giám định hoặc giám định lại mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Sau khi bị thương tật lần đầu đã được điều trị ổn định còn di chứng ảnh hưởng tới sức khỏe;
- Sau khi thương tật tái phát đã được điều trị ổn định;
- Đối với trường hợp thương tật không có khả năng điều trị ổn định theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế thì người lao động được làm thủ tục giám định trước hoặc ngay trong quy trình điều trị.
Dự thảo nêu rõ, người lao động được giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động khi bị tai nạn lao động nhiều lần.
Đối với người lao động đã được hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động theo quy định, nếu thương tật tái phát đã điều trị ổn định, thì được Cơ quan bảo hiểm xã hội giới thiệu đi giám định lại sau 24 tháng, kể từ ngày người lao động được Hội đồng giám định y khoa kết luận tỷ lệ suy giảm khả năng lao động liền kề trước đó.
Cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả phí giám định đối với các trường hợp sau:
1- Khi người lao động chủ động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động theo quy định trên mà có kết luận của Hội đồng giám định y khoa là tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên;
2- Khi người lao động được giới thiệu đi giám định lại theo quy định.
Trợ cấp một lần từ 0,5 - 36 lần mức lương cơ sở
Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% do tai nạn lao động thì được hưởng trợ cấp một lần với mức như sau:
Suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng năm lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở.
Ngoài mức trợ cấp trên, còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện, cứ thêm mỗi năm đóng kể từ năm đóng thứ 2 trở đi được tính thêm 0,3 mức lương cơ sở.
Thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động được hưởng trợ cấp một lần bằng 36 lần mức lương cơ sở nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1- Người lao động đang làm việc bị chết do tai nạn lao động;
2- Người lao động bị chết trong thời gian điều trị lần đầu do tai nạn lao động;
3 Người lao động bị chết trong thời gian điều trị thương tật do tai nạn lao động mà chưa được giám định mức suy giảm khả năng lao động;
4- Người lao động bị suy giảm khả năng lao động trên 31% bị chết trong quá trình điều trị do thương tật tái phát mà số tháng người lao động đó được hưởng trợ cấp chưa đủ 36 tháng.
Suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên do tai nạn lao động thì được hưởng trợ cấp hằng tháng
Theo dự thảo, người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên do tai nạn lao động thì được hưởng trợ cấp hằng tháng.
Mức trợ cấp hằng tháng được quy định như sau:
Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương cơ sở.
Ngoài mức trợ cấp theo quy định trên, hằng tháng còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện, từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5% mức lương cơ sở, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng vào quỹ được tính thêm 0,3% mức lương cơ sở.
Trợ cấp phục vụ bằng mức lương cơ sở
Cũng theo dự thảo, người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên do bị tai nạn lao động mà bị liệt cột sống hoặc mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai chi hoặc bị bệnh tâm thần thì ngoài mức hưởng trợ cấp hằng tháng, hằng tháng còn được hưởng trợ cấp phục vụ bằng mức lương cơ sở.
Được cấp tiền để mua các phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình
Dự thảo nêu rõ, người lao động bị tai nạn lao động mà bị tổn thương các chức năng hoạt động của cơ thể thì được cấp tiền để mua các phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình theo niên hạn căn cứ vào tình trạng thương tật, bệnh tật và theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng bảo đảm yêu cầu, điều kiện chuyên môn, kỹ thuật.
Loại phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình, niên hạn, mức tiền mua phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình, hồ sơ, trình tự thực hiện được áp dụng như đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại Điều 51 Luật An toàn, vệ sinh lao động.