4 nhà khoa học nữ đoạt giải Nobel cùng chồng gây chấn động lịch sử
Những nghiên cứu của các nhà khoa học này đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của nhân loại.
1. Marie Curie
Có một nhà khoa học được Albert Einstein gọi là “người duy nhất trong số tất cả những người nổi tiếng trên thế giới không bị danh tiếng làm hư hỏng”, bà ấy là Marie Curie.
Marie Curie là nhà vật lý, hóa học nổi tiếng thế giới, sinh ngày 7/11/1867 tại Warsaw, Ba Lan.
Năm 24 tuổi, Marie Curie đến Paris du học tại Đại học Sorbonne, nay là Đại học Paris. Cũng chính tại đây, cô đã gặp người chồng cùng chí hướng Pierre Curie.
Vợ chồng Curies đã tách radium clorua từ hàng tấn nhựa đường còn sót lại, phát hiện ra 2 nguyên tố hóa học mới là polonium và radium, đồng thời đo trọng lượng nguyên tử của radium.
Dựa trên phát hiện quan trọng về hiện tượng phóng xạ, năm 1903, vợ chồng Curies và Becquerel đã cùng nhau đoạt giải Nobel Vật lý. Marie Curie cũng trở thành người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử đoạt giải Nobel.
8 năm sau, vào năm 1911, Marie Curie đã tách được radium kim loại và đoạt giải Nobel Hóa học, trở thành người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử 2 lần đoạt giải Nobel.
Sau khi đoạt giải Nobel, Marie Curie không đăng ký bằng sáng chế cho phương pháp tinh chế radium tinh khiết mà công bố nó trước công chúng. Điều này đã thúc đẩy sự phát triển của hóa học phóng xạ và biến xạ trị trở thành một phương pháp hiệu quả để điều trị ung thư.
Do tiếp xúc quá nhiều với chất phóng xạ trong thời gian dài, Marie Curie qua đời vì bệnh thiếu máu ác tính vào năm 1934.
2. Irene Joliot Curie
Irene Joliot Curie hay còn gọi là Irene Curie, là con gái lớn của vợ chồng Curie, sinh năm 1897. Sự khác biệt lớn nhất so với những đứa trẻ bình thường vào thời điểm đó là Irene đã đến một trường tiểu học độc đáo: Curies và các giáo sư đồng nghiệp của họ tại Đại học Sorburne đã cùng nhau thành lập một lớp học dành cho con cái mình.
Trong lớp học này, các em cùng nhau học các môn như ngôn ngữ, văn học, lịch sử, khoa học tự nhiên, điêu khắc và hội họa. Từ đây Irene đã có những bước đi đầu tiên đến với khoa học.
Sau khi học tại Đại học Paris, Irene trở thành một trong những cánh tay phải của mẹ cô, cùng với chồng cô - Frédéric Joliot.
2 vợ chồng Joliot-Curies đã phát hiện ra bức xạ có khả năng xuyên thấu cao vào năm 1932, sau này được xác định là neutron. Năm 1934, họ phát hiện ra chất phóng xạ nhân tạo và tiến hành nghiên cứu về phản ứng phân hạch.
Cặp vợ chồng Joliot-Curie cùng nhận giải Nobel Hóa học năm 1935 vì khám phá ra chất phóng xạ nhân tạo và tổng hợp các hạt nhân phóng xạ mới. Cặp đôi này cùng nhau quản lý việc xây dựng lò phản ứng hạt nhân đầu tiên của Pháp vào năm 1948.
Irene Joliot Curie và mẹ cô - bà Curie, trở thành 2 mẹ con đầu tiên đoạt giải Nobel trong lịch sử.
3. Gerty Teresa Cori
Gerty Teresa Cori sinh ra ở Praha (Cộng hòa Séc) vào năm 1896 trong một gia đình Do Thái.
Năm 1914, tại Đại học Charles ở Praha, bà gặp chồng mình là Carl Ferdinand Cori. Sau khi kết hôn, họ chuyển sang Mỹ sinh sống để tiếp tục nghiên cứu y học tại Viện Quốc gia về Bệnh ác tính (nay là Viện Ung thư Roswell Park) ở Buffalo, New York.
Sau khi rời Roswell, một số trường đại học chỉ cung cấp việc làm cho Carl Ferdinand Cori. Năm 1931, khi Carl trở thành chủ nhiệm Khoa Dược tại Trường Y Đại học Washington ở St. Louis, Gerty Teresa Cori chỉ nhận được vị trí trợ lý nghiên cứu, có thời điểm bà nhận lương chỉ bằng 1/10 so với chồng mình.
2 vợ chồng vẫn tiếp tục làm việc cùng nhau. Năm 1947, Gerty Teresa Cori được trao giải Nobel về Sinh lý học và Y học cùng với chồng là Carl Ferdinand Cori và bác sĩ người Argentina - Bernardo Orsay vì đã khám phá ra các phản ứng enzym trong quá trình chuyển hóa đường.
Gerty Theresa Cori trở thành nhà khoa học nữ thứ 3 đoạt giải Nobel và là người đầu tiên ở Mỹ.
4. May Britt Moser
May Britt Moser sinh ra ở Fosnavog, Na Uy vào năm 1963. Bà gặp chồng mình là Edward Moser khi đang theo học ngành tâm lý học tại Đại học Oslo.
Vào năm 2005, khi May Britt Moser và Edward Moser đang khám phá cơ chế não bộ, họ đã phát hiện ra một thành phần quan trọng khác của hệ thống định vị não bộ trong vỏ não.
Phát hiện của họ đã giúp mọi người hiểu sâu hơn về thuốc thần kinh, đặc biệt là bệnh Alzheimer.
Vào ngày 6/10/2014, trang web chính thức của giải Nobel thông báo John O'Keeffe - giáo sư tại Đại học College London, May Britt Moser - giáo sư tại Đại học Na Uy và chồng của bà là Edward Moser đã phát hiện ra "GPS trong não". Các tế bào tạo nên hệ thống định vị của não đã đoạt giải Nobel Sinh lý học và Y học năm 2014.
May Brett Moser đã trở thành người phụ nữ Na Uy thứ 2 đoạt giải Nobel.