50 năm văn học, nghệ thuật Việt Nam sau thống nhất: Một hành trình vận động và phát triển
Ngày 27/6, tại Hà Nội, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức Hội thảo khoa học 'Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025)'.

Quang cảnh Hội thảo.
Hội thảo có sự tham dự của gần 100 chuyên gia, nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý, văn nghệ sĩ đến từ các viện nghiên cứu, trường đại học đào tạo văn hóa-nghệ thuật, các nhà hát, hội văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và địa phương. Ban Tổ chức đã nhận được 33 tham luận mang tính tổng kết, phân tích và đề xuất giải pháp...
Phát biểu đề dẫn Hội thảo, Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa nghệ thuật Hoàng Hà khẳng định: Văn học, nghệ thuật luôn được Đảng ta xác định là lĩnh vực rất quan trọng và đặc biệt tinh tế của đời sống . Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, văn học, nghệ thuật đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang – đồng hành cùng dân tộc, cổ vũ toàn dân tộc vượt qua gian khó, làm nên đại thắng mùa xuân 1975, thống nhất đất nước.

Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa nghệ thuật Hoàng Hà.
Sau ngày đất nước thống nhất, 50 năm qua, văn học, nghệ thuật Việt Nam tiếp tục phát triển, phản ánh hiện thực cuộc sống hòa bình và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Giai đoạn 1975–1985, sáng tác chủ yếu theo khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa, tập trung thể hiện tinh thần cộng đồng, lòng yêu nước và ý chí vượt khó.
Từ năm 1986, trong bối cảnh đổi mới toàn diện, văn học, nghệ thuật bước vào thời kỳ phát triển năng động hơn với tinh thần dân chủ, cởi mở, sáng tạo. Tác phẩm giai đoạn này phản ánh sâu sắc đời sống hậu chiến, thân phận con người, bi kịch cá nhân với cách tiếp cận đa chiều, nhân văn; đề cao giá trị chân-thiện-mỹ gắn với khát vọng sống tốt đẹp và tinh thần trách nhiệm xã hội.
Quá trình hội nhập quốc tế tạo điều kiện tiếp thu nhiều xu hướng sáng tác hiện đại, hậu hiện đại; nhiều tác phẩm được dịch và giới thiệu ra thế giới. Nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, mỹ thuật đương đại, nghệ thuật trình diễn, đa phương tiện… phát triển mạnh, đặc biệt hấp dẫn công chúng trẻ.
Thành tựu khoa học công nghệ và sự lan tỏa của nền tảng số mở ra không gian sáng tạo mới, tăng cường tương tác giữa nghệ sĩ và công chúng, góp phần định hình thị hiếu thẩm mỹ hiện đại.
Một số lĩnh vực như điện ảnh phía nam, nghệ thuật đương đại, mỹ thuật đa phương tiện đang dần tạo dấu ấn, đóng góp tích cực vào phát triển công nghiệp văn hóa.

Các đại biểu tham dự Hội thảo.
Tổng quan tiến trình 50 năm phát triển văn học, nghệ thuật Việt Nam sau thống nhất, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) nhấn mạnh: Dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn học, nghệ thuật đã đồng hành cùng lịch sử dân tộc, vượt qua giai đoạn khó khăn trước đổi mới, mạnh dạn đổi mới tư duy, vừa vận dụng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa vừa tích cực tìm tòi, thể nghiệm các phương pháp và phong cách mới, bám sát chuyển động đời sống trên phạm vi cả nước.
Tuy vậy, các ý kiến tham luận tại hội thảo nêu lên những những tồn tại của nền văn học nghệ thuật nước nhà như: Thiếu vắng tác phẩm có giá trị lớn về tư tưởng và nghệ thuật, ít tác phẩm phản ánh đúng tầm vóc sự nghiệp đổi mới; một bộ phận sáng tác dễ dãi, chạy theo thị hiếu tầm thường, xa rời thực tiễn.
Nghệ thuật truyền thống gặp khó khăn trong bảo tồn, đội ngũ nghệ nhân ngày càng già hóa, lớp kế cận còn mỏng. Lý luận, phê bình nghệ thuật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn, chưa đủ sức định hướng thẩm mỹ và dẫn dắt sáng tác.
Về đào tạo nghệ thuật, theo Nghệ sĩ Nhân dân Trần Ly Ly, Chủ tịch Hội đồng trường Học viện Múa Việt Nam cần xác định lại mục tiêu, xây dựng đội ngũ giảng viên có tư duy toàn cầu. Chương trình đại học hiện hành chưa phù hợp với đặc thù đào tạo nghệ thuật, chưa phát huy được tính sáng tạo của cả người dạy và người học.
Vì vậy, giáo dục nghệ thuật cần phát triển theo hướng mở, linh hoạt, liên ngành; khuyến khích tư duy phản biện, hội nhập đồng thời tích hợp đào tạo kỹ thuật, biên đạo, quản lý nghệ thuật và công nghệ sân khấu.

Nghệ sĩ Nhân dân Trần Ly Ly, Chủ tịch Hội đồng trường Học viện Múa Việt Nam trình bày tham luận.
Trong tham luận về nghệ thuật sân khấu trong thời đại mới, Nghệ sĩ Ưu tú Lộc Huyền (Nhà hát Sân khấu truyền thống quốc gia Việt Nam) nhấn mạnh: Cũng như nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống khác, tuồng đang đứng trước những thử thách trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng.
Từ những năm cuối thế kỷ 20 đến nay, nghệ thuật tuồng dần mất đi vị thế vốn có trong lòng công chúng, đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực nghiêm trọng và nguy cơ mai một nếu không có các giải pháp kịp thời.
Bên cạnh nguyên nhân xuất phát từ việc thiếu hụt lực lượng sáng tạo, quy trình đào tạo còn nhiều bất cập và chính sách đãi ngộ chưa phù hợp cũng là những yếu tố cản trở sự phát triển.

Nghệ sĩ Ưu tú Lộc Huyền, Nhà hát Sân khấu truyền thống Quốc gia Việt Nam góp ý tại Hội thảo.
Đề xuất các giải pháp xây dựng và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống trong thời kỳ hội nhập, nghệ sĩ nhấn mạnh: Cần đẩy mạnh đào tạo, tập huấn chuyên sâu gắn với giao lưu quốc tế; nâng cao vị thế của nghệ thuật tuồng trong các nhiệm vụ chính trị, văn hóa quốc gia. Đặc biệt, cần sớm xây dựng chế độ đãi ngộ đặc thù, tạo động lực cho sáng tạo nghệ thuật.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội cho rằng, để văn hóa, văn học nghệ thuật phát triển đúng với vai trò, trước hết cần có hệ thống chính sách và pháp luật đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với đặc thù sáng tạo nghệ thuật, đồng thời cần hình thành hệ thống chính sách liên quan đến thuế, đất đai, hợp tác công-tư và các cơ chế tài chính đặc thù trong một hệ sinh thái văn hóa-nghệ thuật phù hợp, tạo động lực cho sự sáng tạo.
Theo ông, Việt Nam không thiếu nhân tài hay đội ngũ văn nghệ sĩ tâm huyết. Cái thiếu là môi trường pháp lý, thể chế thuận lợi để những tài năng đó được phát huy, cống hiến và lan tỏa các giá trị nghệ thuật đích thực.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn tham gia Hội thảo.
Tại Hội thảo, các đại biểu tiếp tục bàn luận, đánh giá quá trình vận động, phát triển văn học nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau thống nhất, nhất là sau Đổi mới (1986) với những nổi bật, ưu điểm và hạn chế; phân tích nguyên nhân, thách thức đồng thời đề xuất giải pháp nhằm phát triển và quảng bá, lan tỏa các giá trị của văn học nghệ thuật trong kỷ nguyên mới.