80 năm Độc lập: Bản hùng ca non sông một dải


Một ngày tháng Tám lịch sử, chúng tôi trở lại ngôi nhà - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ở Vạn Phúc, Hà Nội. Ngôi nhà này là của cụ Nguyễn Văn Dương nay đã trở thành di tích quốc gia “Nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc tháng 12/1946”.
Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”,
trích Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19/12/1946.



Nơi Bác Hồ viết lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ảnh: VK
Niềm nở dẫn chúng tôi đi tham quan di tích, người hướng dẫn viên kể lại từng chi tiết về nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở, làm việc từ ngày 3-19/12/1946. Đặc biệt, trong căn phòng ở tầng hai ngôi nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc, kêu gọi đồng bào, chiến sỹ cả nước đứng lên chống thực dân Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc.




Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi, động viên các lực lượng
Theo ông Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện lịch sử Đảng, sau khi giành được độc lập, chính quyền cách mạng non trẻ khi đó gặp muôn vàn khó khăn, cùng lúc phải giải quyết nạn đói, nạn mù chữ,... và đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi phải đối phó với “thù trong giặc ngoài”.
Được sự giúp đỡ của quân Anh, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, sau đó mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Bất chấp những thiện chí hòa bình của ta, ngày 15 và 16/12/1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Dã tâm xâm lược nước ta của thực dân Pháp đã rõ ràng. Nền độc lập dân tộc bị đe dọa nghiêm trọng; dân tộc Việt Nam đứng trước hai lựa chọn: hoặc là khoanh tay, cúi đầu trở lại kiếp nô lệ; hoặc là đấu tranh đến cùng để bảo vệ nền độc lập, tự do, thống nhất của đất nước.

Trước tình thế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) đã quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc, kêu gọi đồng bào, chiến sỹ cả nước đứng lên chống thực dân Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc. Sáng 20/12/1946, tại Hang Trầm (huyện Chương Mỹ), Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát đi “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đồng bào, chiến sỹ cả nước.
Đáp lời hiệu triệu của Người, quân và dân Hà Nội đã mở đầu kháng chiến toàn quốc vào hồi 20 giờ 03 phút ngày 19/12/1946 bằng những loạt đại bác từ Pháo đài Láng vào các mục tiêu trong Thành phố, chính thức mở đầu cuộc kháng chiến với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.
Cùng với Hà Nội, quân và dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam, như: Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn,… đã đồng loạt anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc ta muôn người như một, chung sức đồng lòng, nhất tề đứng lên cầm vũ khí chống giặc ngoại xâm với ý chí sục sôi, quyết tâm hy sinh và niềm tin tất thắng.

Thủ đô Hà Nội trong những ngày kháng chiến (1946)

Bộ đội đào hào giao thông ở Bắc Bộ Phủ quyết chiến với giặc Pháp (1946)

Bác Hồ động viên, khích lệ các chiến sỹ

Trong dòng chảy 80 năm độc lập, Thượng tướng, viện sỹ Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, chia sẻ, khi đã giành được độc lập rồi thì điều quan trọng là phải giữ vững được nền độc lập. “Tuyên ngôn Độc lập của Bác Hồ là lời hiệu triệu thiêng liêng đối với cả dân tộc. Và để bảo vệ nền độc lập non trẻ, cả dân tộc bước vào cuộc trường chinh anh dũng, chống thực dân Pháp để giữ vững nền độc lập”.
60 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Hà Nội, giam chân giặc Pháp, lực lượng của ta bí mật đào đắp công sự chiến đấu, đào giao thông hào, tạo vật chướng ngại, hình thành các chiến lũy ở các cửa ô và trên đường phố để ngăn cản cơ giới địch. Trải qua gần 2 tháng liên tục chiến đấu và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đề ra (tiêu hao, giam chân địch trong thành phố, tạo điều kiện di chuyển các cơ quan, kho tàng, tổ chức nhân dân tản cư về vùng căn cứ xây dựng thế trận kháng chiến lâu dài), lực lượng ta chủ động rút về hậu phương an toàn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghe kế hoạch chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ.
Từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã lập nên bao kỳ tích.
Ngày 6/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Bác Hồ kính yêu chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho bằng được”. Điện Biên Phủ đã trở thành “điểm quyết chiến chiến lược” giữa ta và địch, trong đó Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm: "Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh".




“Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh họp bàn cùng Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Trần Đình (mật danh của Chiến dịch Điện Biên Phủ 1953).
Bộ đội công binh mở đường vào Điện Biên Phủ.
Bác Hồ và toàn quân trong thời điểm chuẩn bị xuất phát tấn công đồn Đông Khê 1950.
Phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, hàng chục vạn cán bộ, chiến sỹ, dân công hỏa tuyến cùng nhân dân các địa phương đã ngày đêm xẻ núi, bạt rừng, xuyên đèo, lội suối, mở hàng nghìn km đường giao thông cho bộ đội hành quân, vận chuyển vũ khí, lương thực, hậu cần cho Chiến dịch.
Trải qua “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn…”, với “đôi chân đất”, tinh thần thép và ý chí chiến đấu quật cường, bền bỉ, anh hùng của quân và dân ta, Chiến dịch Điện Biên Phủ đã giành thắng lợi vang dội - “Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.




Lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ
Theo Thượng tướng, viện sỹ Nguyễn Huy Hiệu, không chỉ là biểu tượng của lòng quả cảm, chiến thắng Điện Biên Phủ đã buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán ở Geneva, thừa nhận nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. “Chiến thắng ấy là bước khẳng định mạnh mẽ lời tuyên ngôn của Bác: Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Là thắng lợi đầu tiên thực hiện trọn vẹn lời thề không làm nô lệ. Nhưng sau Điện Biên, chúng ta mới giành lại một nửa đất nước, còn nhiệm vụ thống nhất vẫn còn ở phía trước”, Thượng tướng, viện sỹ Nguyễn Huy Hiệu nói.


Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, cũng như nhiều dân tộc trên thế giới, nhân dân Việt Nam mong muốn có cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do. Tuy nhiên, sau khi Pháp rút, với âm mưu chia cắt nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới đế quốc Mỹ đã nhanh chóng “thế chân” Pháp can thiệp vào Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược này, Mỹ đã huy động số lượng lớn binh sĩ với vũ khí tối tân nhất, hiện đại nhất, triển khai nhiều chiến lược chiến tranh nguy hiểm; tiến hành hai cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo đối với miền bắc, gây ra nhiều đau thương, mất mát cho nhân dân ở cả hai miền đất nước và hậu quả chiến tranh vẫn còn kéo dài cho tới ngày hôm nay.

Thượng tướng, viện sỹ Nguyễn Huy Hiệu.
Vậy là một lần nữa, nhân dân Việt Nam lại đứng dậy chiến đấu với kẻ thù xâm lược, với mục tiêu: Thống nhất non sông như lời Bác Hồ khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi.". “Lời hiệu triệu của Bác lúc đó đi vào trái tim của người Việt Nam, của Đảng, dân tộc Việt Nam và của các thế hệ người Việt Nam”, Thượng tướng, viện sỹ Nguyễn Huy Hiệu chia sẻ.
Năm 1965, ở tuổi 18, ông Hiệu chính thức gia nhập quân ngũ, mang theo hành trang và niềm tin mãnh liệt: “Phải giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Ông kể: Ngày lên đường nhập ngũ đã mang theo bên mình một cuốn “Thép đã tôi thế đấy”. "Cuốn sách ấy lúc đó gắn bó với những người lính. Chúng tôi chép tay từng đoạn, chuyền tay nhau đọc. Có người chỉ có nửa cuốn, có người giữ cả cuốn như báu vật. Đọc đến đâu là rơi nước mắt đến đó, vì thấy mình trong từng trang sách, từng nhân vật", ông kể.

Giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà
Không chỉ có “Thép đã tôi thế đấy", theo ông, trong hành trang của người lính còn có những "Sông Đông êm đềm", có thơ Tố Hữu, có “Đảng cho ta sáng mắt, sáng lòng”. Tất cả những áng văn, thơ ấy chính là nhiên liệu tinh thần, tiếp thêm nghị lực để những người lính vượt qua những ngày hành quân đói rét, những trận đánh ác liệt, những giây phút đối mặt sinh tử.
"Chúng tôi gọi đó là “mang theo cả một thời đại” bước vào cuộc chiến - vừa là lý tưởng, vừa là văn hóa, vừa là tâm hồn của một thế hệ. Cả đơn vị tôi, ai cũng mang trong mình ý chí như thế. Lý tưởng đó được giáo dục, hun đúc từ lời của Bác, từ những áng văn học, những bài thơ Tố Hữu, những cuốn sách như "Thép đã tôi thế đấy". Những thứ ấy như nhiên liệu tinh thần, đi theo chúng tôi vào từng trận đánh”

Cuốn sách như "Thép đã tôi thế đấy" đã theo Thiếu tướng, viện sỹ Nguyễn Huy Hiệu suốt cả cuộc chiến. Ảnh: Như Ý
Trong cái gian khổ, cái ác liệt của chiến tranh, ông kể, người lính luôn mang trong mình một ý chí mãnh liệt. Đó là quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ý chí ấy, niềm tin ấy chính là sức mạnh tinh thần giúp những người lính vượt qua tất cả. Đó là tinh thần “quyết chiến, quyết thắng” theo lời Bác Hồ: “Phải đánh cho Mỹ cút, phải đánh cho ngụy nhào”, để Bắc - Trung - Nam sum họp một nhà, đất nước liền một dải.
Từ chiến sỹ, tiểu đội trưởng , trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, ông trưởng thành từ chiến trường Quảng Trị. Ông từng tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong 4 chiến dịch lớn: Mậu Thân 1968; Đường 9 - Nam Lào 1971; Quảng Trị 1972 và Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. “Qua từng trận đánh, tôi càng thấm thía: chúng ta không chỉ thắng bằng vũ khí mà là bằng trí tuệ, bằng lòng dân, bằng truyền thống yêu nước và sức mạnh chiến tranh nhân dân”, ông chia sẻ.

Khi được hỏi về thế hệ trẻ, ông bày tỏ “rất tin tưởng”. Theo ông, thế hệ trẻ đang sống trong một thời đại rất khác - thời đại của hòa bình, của công nghệ, của tri thức. Họ được học hành bài bản, có trình độ, có điều kiện tiếp cận thông tin đa chiều.
“Thanh niên bây giờ không còn đơn thuần tiếp cận một chiều như thời chúng tôi. Họ có thể phân biệt được đúng - sai, thật - giả, tích cực - tiêu cực. “Tôi thấy nhiều bạn trẻ có nhận thức rõ ràng, biết hướng tới cái tốt, cái đúng, và có tinh thần cầu tiến. Dĩ nhiên, đâu đó vẫn còn những biểu hiện lệch lạc, nhưng tôi tin đó không phải là số đông”

Điều ông mong muốn ở thế hệ trẻ, ngoài đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, còn là ý thức trách nhiệm và khát vọng làm chủ đất nước mình. Các bạn trẻ phải làm chủ công nghệ, làm chủ khoa học, làm chủ lĩnh vực mình đảm nhận. Khi đó, các bạn mới thực sự làm chủ được vận mệnh cá nhân, mới đủ khả năng gánh vác vận mệnh quốc gia trong tương lai.
“Tôi tin nếu thế hệ hôm nay giữ được lý tưởng, sống có trách nhiệm, biết vươn lên bằng năng lực thực chất, thì Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện lời Bác Hồ: “Sánh vai với các cường quốc năm châu”, xứng đáng với cha ông và với truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc”, ông nói.

Theo ông, trong thời bình, thế hệ trẻ có thể có những biểu hiện rất khác - nhiều mối quan tâm riêng, thậm chí là cả những lệch chuẩn. Nhưng một khi Tổ quốc bị xâm lược, thì tôi tin sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc sẽ trỗi dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Lịch sử đã chứng minh điều đó suốt hàng ngàn năm qua, không phải đến bây giờ mới có. Đó không chỉ là lòng yêu nước, mà còn là lòng tự trọng dân tộc, là sự vùng dậy mãnh liệt để bảo vệ độc lập - tự do của đất nước. Chắc chắn thế hệ trẻ sẽ là những nhân tố tiêu biểu viết tiếp truyền thống anh hùng của dân tộc.

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/80-nam-doc-lap-ban-hung-ca-non-song-mot-dai-post1768984.tpo