80 năm Ngoại giao Việt Nam: Kết hợp hài hòa giữa yếu tố dân tộc và quốc tế
Vượt qua nhiều khó khăn, ngành Ngoại giao Việt Nam không ngừng phát huy truyền thống vẻ vang, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đóng góp vào những thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Tháng Tám mùa Thu lịch sử năm 1945, ngành Ngoại giao vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất trực tiếp sáng lập và đặt nền móng.
Trong suốt chặng đường 80 năm sau đó, Ngoại giao đã có những đóng góp quan trọng, in đậm dấu ấn trong từng chặng đường lịch sử, từ giai đoạn giành và giữ vững độc lập, đến công cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc và cho đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Nhân kỷ niệm 80 năm thành lập ngành (28/8/1945-28/8/2025), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã chia sẻ về những thành tựu, đóng góp to lớn, nổi bật, mang dấu ấn của ngành Ngoại giao trong suốt 80 năm phụng sự quốc gia, dân tộc.
Phụng sự vì lợi ích quốc gia, dân tộc
- Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, ông có đánh giá thế nào về vai trò và những dấu mốc nổi bật, những đóng góp quan trọng của ngành đối với công cuộc đấu tranh, giành độc lập tự do và xây dựng, phát triển đất nước?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Trong suốt chặng đường 80 năm xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoại giao Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, không ngừng phát huy truyền thống vẻ vang, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đóng góp vào những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn. (Ảnh: BNG)
Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc,” đối mặt với “thù trong giặc ngoài” trong những ngày đầu lập nước, ngoại giao đã tiên phong đấu tranh giữ vững thành quả cách mạng, bảo toàn chính quyền nhân dân, kéo dài thời gian chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Những nước cờ ngoại giao mẫu mực của Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946 cũng như những nỗ lực không ngừng tại các Hội nghị Đà Lạt và tại Fontainebleau, đưa đất nước vào thế tối ưu nhất có thể trong hoàn cảnh ngặt nghèo khi đó.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân-đế quốc, ngoại giao vừa phục vụ kháng chiến, vừa tích cực đấu tranh phá vỡ thế bao vây, cô lập, vừa mở rộng quan hệ với bên ngoài và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta. (20/7/1954). (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Cùng các mặt trận quân sự và chính trị, ngoại giao Việt Nam đã phát huy những thắng lợi trên chiến trường để buộc các nước phải ngồi vào bàn đàm phán. Hiệp định Geneva và Hiệp định Paris không chỉ là những mốc son ngoại giao chói lọi mà còn tạo thời cơ cho thắng lợi vĩ đại giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc 30 năm chiến tranh gian khổ chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Bước vào giai đoạn tái thiết đất nước sau chiến tranh, ngoại giao là lực lượng tiên phong trong việc từng bước phá thế bao vây, cấm vận, đưa đất nước bước ra khỏi khó khăn về kinh tế-xã hội. Đồng thời bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, khôi phục quan hệ với các nước Đông Nam Á, bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ và mở rộng quan hệ với các quốc gia khác.
Với chủ trương “đa dạng hóa, đa phương hóa,” quan hệ ngoại giao ngày càng được mở rộng. Từ một nước bị bao vây, cô lập, Việt Nam nay đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước, thiết lập được mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 38 nước, trong đó có tất cả các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an, các nước G7 hầu hết các nước G20, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế.

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký văn kiện Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở thủ đô Paris, Pháp. (Ảnh: Văn Lượng/TTXVN)
Bên cạnh đó, cùng với quốc phòng, an ninh, ngoại giao đã góp phần xây dựng vành đai biên giới hòa bình, hữu nghị, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ và tạo dựng các cơ chế hợp tác để giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình.
Ngoại giao đa phương góp phần đưa Việt Nam từ nước bị bao vây, cô lập trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Ngoại giao kinh tế và hội nhập quốc tế ngày càng trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, huy động các nguồn lực, điều kiện bên ngoài cho phát triển. Các lĩnh vực công tác người Việt Nam ở nước ngoài, ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân tiếp tục được triển khai hiệu quả, toàn diện.

Ngày 5/8/1995, tại Hà Nội, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Warren Christopher và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ký Nghị định thư, chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ. (Ảnh tư liệu: TTXVN)
- Thực tiễn triển khai nhiệm vụ trong suốt 80 năm qua, ngành Ngoại giao rút ra những bài học kinh nghiệm gì? Đâu là những giá trị cốt lõi đã tạo nên bản sắc và truyền thống của nền ngoại giao Việt Nam?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Nền ngoại giao của Việt Nam ra đời, trưởng thành trong 30 năm kháng chiến và ngày càng lớn mạnh trong 40 năm đổi mới. Được trui rèn, thử thách trong những giai đoạn cam go nhất của lịch sử cách mạng Việt Nam đã để lại cho ngoại giao Việt Nam nhiều bài học còn nguyên giá trị.
Đó là bài học về việc bảo đảm cao nhất, trên hết và trước hết lợi ích quốc gia-dân tộc.
Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ” và tư tưởng của Người được các thế hệ lãnh đạo, cán bộ ngoại giao Việt Nam thấm nhuần và thực hiện trong suốt chặng đường lịch sử 80 năm qua.
Đó cũng là bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, nhạy bén trong nhận định và nắm bắt tình hình, quyết đoán trong việc đưa ra các quyết sách.
Đó còn là bài học về kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, qua đó huy động được sự ủng hộ vô cùng to lớn cả về vật chất và tinh thần của nhân loại tiến bộ ủng hộ Việt Nam.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn tham dự Hội nghị lần thứ 4 về Hợp tác giữa các nước Đông Á vì sự phát triển của Palestine. (Ảnh: Báo Thế giới và Việt Nam)
Đó cũng là các bài học về kiên định về nguyên tắc nhưng linh hoạt về sách lược theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”; bài học về tầm quan trọng của đoàn kết, đồng thuận; là sự vận dụng nhuần nhuyễn “năm cái biết” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến), là khả năng tạo dựng thời cơ và chớp thời cơ, là ngoại giao tâm công giúp thu phục lòng người bằng chính nghĩa, tình người, lẽ phải và đạo lý.
Những bài học kinh nghiệm này đã góp phần hình thành nên những giá trị cốt lõi tạo nên một nền ngoại giao mang đậm bản sắc dân tộc và con người Việt Nam.
Từ quốc gia 'đến sau' đến quốc gia 'dẫn dắt'
- Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đánh giá về những thuận lợi, thách thức đối với ngành Ngoại giao trong bối cảnh tình hình hiện nay?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Thế giới đang đứng trước thời điểm bước ngoặt, với những diễn biến khó lường, phức tạp, những chuyển động sâu rộng về chính trị, an ninh, kinh tế, khoa học, quân sự, khoa học-công nghệ. Trong nước, giai đoạn sắp tới có ý nghĩa quan trọng bản lề, nước rút trong việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển tới năm 2030, tầm nhìn đến 2045, đưa đất nước vào kỷ nguyên mới.



Một số hoạt động ngoại giao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. (Ảnh: TTXVN)
Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh “trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ngoại giao Việt Nam phải vươn lên những tầm cao mới để hoàn thành những trọng trách vinh quang mới, xứng đáng là đội quân tiên phong, binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam.” Điều đó đòi hỏi ngoại giao phải không ngừng đổi mới, nâng tầm hơn nữa cả trong tư duy và hành động.
Thứ nhất, đối ngoại cần phát huy vai trò tiên phong, trọng yếu, thường xuyên trong tạo lập và củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi, thực hiện ba mục tiêu của đối ngoại là an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất nước.
Thứ hai, thông qua các hoạt động ngoại giao kinh tế, ngoại giao khoa học công nghệ, đối ngoại đóng vai trò mở đường, tranh thủ cơ hội, hóa giải thách thức, kiến tạo động lực phát triển mới cho đất nước, kết hợp hiệu quả giữa nội lực với ngoại lực.
Thứ ba, không ngừng nâng tầm đóng góp của Việt Nam đối với hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại.
Thứ tư, phát huy “sức mạnh mềm” của dân tộc, gia tăng hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tương xứng với tầm vóc lịch sử và văn hóa, vị thế chính trị và kinh tế của đất nước.
Thứ năm, xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của kỷ nguyên mới, ngang tầm khu vực và vươn tầm quốc tế.

Quan hệ Việt Nam -EU đã và đang có những bước phát triển tích cực trên tất cả các lĩnh vực sau 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. (Ảnh: Vietnam+)
- Vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành 4 Nghị quyết “trụ cột” từ thể chế, khoa học công nghệ đến kinh tế tư nhân và hội nhập quốc tế. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đánh thế nào về nhiệm vụ và vai trò của ngoại giao trong việc bảo đảm triển khai 4 Nghị quyết nhằm tạo sự kết gắn giữa “nội lực vững-ngoại lực mạnh” cho phát triển đất nước?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Chúng ta đang sống trong giai đoạn thế giới có những thay đổi mang tính thời đại. Trong bối cảnh đó, “Bộ tứ trụ cột” Nghị quyết là động lực để đưa Việt Nam “cất cánh” trong giai đoạn phát triển mới.
Các Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật, Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 59 về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới là những quyết sách chiến lược góp phần kiến tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi cho mục tiêu phát triển mạnh mẽ, bứt phá của đất nước.
Trong đó, Nghị quyết số 59 đánh dấu bước ngoặt về đổi mới tư duy, cách tiếp cận trong quá trình hội nhập của đất nước, theo đó hội nhập quốc tế vừa được xác định là “trọng yếu, thường xuyên” vừa là “động lực quan trọng” đưa đất nước vào kỷ nguyên mới. Hội nhập quốc tế giờ đây không chỉ dừng lại ở việc định vị Việt Nam là quốc gia “đến sau,” “tham gia,” “gia nhập” mà xác định vị thế của quốc gia “xây dựng,” “định hình” và “dẫn dắt” các khuôn khổ hợp tác phù hợp với điều kiện và năng lực mới của đất nước.
Bám sát mục tiêu phát triển của đất nước
- Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đánh giá những kết quả, thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua và cho biết, ngành Ngoại giao sẽ triển khai nhiệm vụ ngoại giao kinh tế như thế nào để góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước trong thời gian tới?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Ngoại giao kinh tế không chỉ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà còn trở thành động lực quan trọng trong công cuộc phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của Việt Nam.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Lễ công bố Bộ chỉ số đánh giá kết quả thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA INDEX) của các địa phương năm 2024. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)
Trong bối cảnh thách thức và cơ hội đan xen, bám sát mục tiêu phát triển của đất nước, nhất là mục tiêu tăng trưởng 2 con số và 2 mục tiêu 100 năm, trong thời gian tới, ngoại giao kinh tế sẽ tập trung vào nhiệm vụ ưu tiên sau:
Một là, khai thác tối đa lợi ích của các hiệp định thương mại, đầu tư hiện có, nhất là những thị trường, lĩnh vực còn chưa được khai thác; cụ thể hóa các khuôn khổ quan hệ vừa được nâng cấp thành các chương trình, dự án hợp tác kinh tế thiết thực, hiệu quả.
Hai là, tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chú trọng làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng), đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới (khoa học công nghệ, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức).
Ba là, kịp thời nhận diện và tranh thủ cơ hội từ những xu hướng mới đang định hình như các xu hướng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng; thiết lập sự hợp tác sâu rộng với các trung tâm đổi mới sáng tạo của thế giới.
Cuối cùng, ngoại giao kinh tế sẽ tiếp tục đồng hành với các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, kiến tạo đòn bẩy, kết nối, thu hút các dự án và chương trình hợp tác mới.



Việt Nam vươn lên vào nhóm 32 quốc gia hàng đầu thế giới về quy mô GDP. (Ảnh: TTXVN)
- Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng chia sẻ về vai trò ngày càng gia tăng của công tác Ngoại giao văn hóa trong tổng thể công tác đối ngoại, ngoại giao?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, ngoại giao văn hóa là “nền tảng tinh thần” tạo nên bản sắc của nền ngoại giao Việt Nam.
Công tác ngoại giao văn hóa thời gian đã được đẩy mạnh với nhiều hoạt động phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, chú trọng chiều sâu và chất lượng, đồng thời thể hiện sự đổi mới sáng tạo trong ý tưởng cũng như cách thức thực hiện.
Những thành tựu nổi bật có thể kể đến như việc lan tỏa các giá trị, tư tưởng, quan điểm nhân sinh quan, thế giới tiến bộ và cao đẹp của dân tộc Việt Nam thông qua hình ảnh, giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh nhân được UNESCO vinh danh.

Thứ trưởng Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng dự lễ khai trương Tủ sách Tiếng Việt tại Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Paris. (Ảnh: Ngọc Hiệp/TTXVN )
Bên cạnh đó, ngoại giao văn hóa đã phát huy hiệu quả trong việc quảng bá hình ảnh địa phương, xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư và đẩy mạnh “kinh tế di sản” – một định hướng phát triển mới hài hòa và bền vững.
Từ năm 2021 đến nay, nhiều chương trình ngoại giao văn hóa như “Tuần/Ngày Việt Nam ở nước ngoài,” “Ngày tìm hiểu về Việt Nam” đã được tổ chức với quy mô lớn tại nhiều quốc gia, không chỉ là những sự kiện văn hóa-kinh tế-chính trị mà còn góp phần thúc đẩy du lịch, quảng bá thương hiệu địa phương/doanh nghiệp.
Một đóng góp quan trọng khác là ngoại giao văn hóa góp phần nâng tầm ngoại giao đa phương, qua đó nâng cao vị thế đất nước. Vai trò của Việt Nam trong các cơ chế điều hành trọng yếu như Ủy ban Di sản thế giới, Hội đồng Chấp hành, Ủy ban liên chính phủ về Công ước 2003 và Công ước 2005 ngày càng được củng cố và nâng cao, tạo nên “hiện tượng Việt Nam” tại UNESCO.



Đảng, Nhà nước cũng đã có những cơ chế kết nối, mời gọi để thu hút và phát huy tiềm năng của kiều bào ở nước ngoài. (Ảnh: TTXVN)
Trong thời gian tới, để tiếp tục đẩy mạnh công tác ngoại giao văn hóa, Bộ Ngoại giao sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai hiệu quả Chiến lược Ngoại giao văn hóa giai đoạn 2021-2030. Đồng thời, sẽ chú trọng đưa văn hóa trở thành nền tảng, động lực mới trong phát triển, gắn kết chặt chẽ với ngoại giao chính trị, kinh tế, quốc phòng-an ninh; khuyến khích sự tham gia chủ động của địa phương, người dân, doanh nghiệp.
- Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng có thể chia sẻ một vài câu chuyện, phát biểu cụ thể của các nhà lãnh đạo thế giới đánh giá về vai trò, vị thế Việt Nam?
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Việt Nam được đánh giá cao từ góc độ một quốc gia đang vươn lên mạnh mẽ, trở thành một hình mẫu thành công trong phát triển kinh tế-xã hội, có vai trò, tiếng nói ngày càng tăng trên trường quốc tế.

Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân cùng Tổng Thư ký ASEAN ASEAN Kao Kim Hourn và Phu nhân với các đại biểu tại Trụ sở Ban Thư ký ASEAN. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
Tôi nhớ câu nói của Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres trong nhiều cuộc tiếp xúc đã nhắc đến Việt Nam như một “hình mẫu của hòa bình và phát triển bền vững.” Hay Tổng Thư ký ASEAN Kao Kim Hourn đã nhấn mạnh Việt Nam là thành viên quan trọng, có đóng góp then chốt trong củng cố đoàn kết và nâng cao vị thế, năng lực của ASEAN trong đối thoại và hợp tác với các đối tác toàn cầu nhân dịp 30 năm Việt Nam gia nhập ASEAN.
Nhiều nhà lãnh đạo các quốc gia và tổ chức quốc tế khác, qua những lời nói, hành động của mình cũng đánh giá cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, cho rằng Việt Nam là một đối tác tin cậy, một thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
- Xin trân trọng cảm ơn Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn./.