9 năm - vẹn nguyên cảm xúc thiêng liêng của Tháng 6 trên hải trình đến Trường Sa
Mỗi năm tháng đi qua, có những khoảnh khắc lặng lẽ trôi, nhưng cũng có những giây phút neo đậu mãi mãi trong ký ức. Với tôi, chuyến công tác Trường Sa vào mùa hè năm 2016 chính là những ký ức đẹp đẽ, thiêng liêng của tuổi trẻ. Trong những ngày Tháng 6 hào hùng kỷ niệm 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam, tôi càng hiểu, những cảm xúc ấy giá trị như thế nào đối với một nhà báo.
Tháng 6/2016, tôi vinh hạnh được tham gia Đoàn công tác số 14 do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức, đến thăm và động viên quân dân huyện đảo Trường Sa cùng Nhà giàn DK1/15 đó là một vinh dự lớn lao và thiêng liêng không chỉ của riêng tôi, mà còn là niềm tự hào của Nhà xuất bản Tư pháp – đơn vị tôi công tác khi ấy.
Từ cảng Cát Lái – Tp Hồ Chí Minh, chúng tôi đã có hơn 10 ngày lênh đênh trên con tàu Trường Sa 571, đi qua 10 đảo và 1 nhà giàn. Ký ức về những lá cờ tung bay trước gió, những ánh mắt trẻ thơ hồn nhiên, những cái nắm tay siết chặt của người lính nơi đầu sóng – tất cả như vẫn còn nguyên vẹn, sống động, thổn thức mỗi khi tôi nhắm mắt nhớ về...
Nhân kỷ niệm tròn 9 năm chuyến hải trình ấy, tôi xin được chia sẻ lại đôi dòng ghi chép cũ – như một lời tri ân với Trường Sa thân yêu, với những con người bình dị mà phi thường nơi đảo xa, và với tất cả những ai luôn dành một phần trái tim mình hướng về biển đảo Tổ quốc".
"Đây là Tổ quốc mình, đất liền cũng là Tổ quốc mình”!
Con tàu Trường Sa mang số hiệu 571 rời cảng Cát Lái của TP Hồ Chí Minh vào lúc 8 giờ sáng 27/5/2016, sau hai đêm, một ngày đã đưa chúng tôi vượt qua hàng trăm hải lý để đến với điểm dừng chân đầu tiên là đảo Cô Lin thuộc cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa - điểm đảo nổi tiếng gắn liền với cuộc chiến đấu và anh dũng hy sinh để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc ngày 14/3/1988 của các anh hùng liệt sỹ thuộc Hải quân nhân dân Việt Nam.

Trước khi lên thăm đảo, Đoàn công tác đã làm lễ dâng hương tưởng nhớ các liệt sỹ đã hy sinh bảo vệ chủ quyền trên vùng biển của Tổ quốc. Sau lễ tưởng niệm, chúng tôi được di chuyển lên đảo bằng những chiếc xuồng của lực lượng Hải quân. Tại đây, Đoàn công tác đã thăm hỏi, động viên và giao lưu văn nghệ với cán bộ chiến sỹ trên đảo. Chúng tôi dâng trào cảm xúc nắm tay nhau hát vang những bài hát về biển đảo quê hương, ca ngợi Đảng, Bác Hồ.

Hơn hai tiếng đồng hồ dường như trôi đi quá nhanh, chúng tôi phải bịn rịn chia tay nhau để tiếp tục cuộc hải trình đến với đảo Sinh Tồn, giờ phút chia tay ấy tôi cảm nhận được rằng nơi khóe mắt ai cũng cay xè và rớm lệ!
Con tàu 571 rời đảo Cô Lin đưa chúng tôi đến với đảo Sinh Tồn. Đảo này chỉ cách đảo Cô Lin khoảng 9 hải lý (17km). Trong mênh mông của biển trời hình ảnh một hòn đảo xinh đẹp dần hiện lên trước mắt tôi. Những hàng cây xanh mướt, những công trình dân sinh và cột mốc chủ quyền với quốc kỳ đang bay phấp phới trong gió ở ngay trước mắt, tôi thực sự choáng ngợp trước vẻ đẹp thơ mộng của hòn đảo này.
Tôi muốn rảo bước nhanh hơn để được xuống xuồng vào đảo với mong muốn chứng kiến, được “chạm”, được “sờ” vào những ngọn cây, tảng đá, rạn san hô trên hòn đảo xinh đẹp này.
Bước chân lên đảo, cả Đoàn tản bộ đi dọc đảo để vào khu trung tâm. Mặc dù trời khá nắng nhưng những cơn gió biển cùng với những háo hức được thăm đảo đã làm chúng tôi quên đi cái nắng 34 - 35 độ trên biển.

Vào trung tâm đảo, Đoàn tập trung trước Sở chỉ huy để chuẩn bị làm lễ chào cờ, tiếng hô của người sỹ quan chỉ huy vang lên, tất cả cùng đứng nghiêm, hát vang quốc ca và chào cờ. Tôi không nhớ mình đã bao nhiêu lần hát quốc ca và chào cờ Tổ quốc, nhưng lần này một cảm giác hết sức đặc biệt tràn về trong tôi, một cảm giác tự hào, thiêng liêng hơn bao giờ hết, bài hát quốc ca hòa cùng tiếng sóng biển như vang hơn và bay xa hơn, cảm giác như những lời chúng tôi hát có thể vọng về tới đất liền.
Kết thúc phần nghi lễ chào cờ, tôi cùng cả Đoàn đi thắp hương tại bia tưởng niệm 64 chiến sỹ đã anh dũng hy sinh tại quần đảo Trường Sa trong trận chiến Gạc Ma ngày 14/3/1988, trước hương linh các anh, chúng tôi lần lượt thắp những nén nhang thành kính dâng lên mong hương hồn các anh yên nghỉ và phù hộ độ trì cho Tổ quốc, cho non sông, cho các chiến sỹ tiếp tục vững tay súng nơi đầu sóng ngọn gió, bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc.

Tiếp nối các hoạt động trên đảo, tôi được vinh dự đại diện cùng một số đồng chí trong đoàn công tác thăm trường học và tặng quà cho các cháu học sinh trên đảo. Trên đảo chỉ có 10 cháu nhỏ, trong đó có cháu mới 5 tháng tuổi. Gặp chúng tôi, những đứa trẻ hồn nhiên sà vào lòng như là người thân, không có một khoảng cách giữa “khách” và những cô, cậu bé phần nhiều được lớn lên trên đảo. Nhìn cô cậu nào da cũng đen sạm vì nắng biển, nhìn chúng nhanh nhẹn như những chú sóc nhỏ chạy nhảy khắp nơi, khỏe khoắn và thật đáng yêu.
Tôi có hỏi một cháu bé chừng 4 hay 5 tuổi rằng “Cháu có muốn về đất liền với chú không?”, cậu bé trả lời hồn nhiên nhưng làm tôi vô cùng xúc động rằng “Thế đất liền có giống ở đây không chú?”. Tôi bảo cháu “Giống nhau cháu ạ, vì đây là Tổ quốc mình, đất liền cũng là Tổ quốc mình”!
Sau phần thăm hỏi, động viên các chiến sỹ, các cháu học sinh, các gia đình sinh sống trên biển, cả Đoàn tham gia chương trình giao lưu văn nghệ với cán bộ, chiến sỹ và Nhân dân trên đảo. Nội dung buổi giao lưu phong phú bao gồm hát đơn ca, tập thể, múa, xiếc… nhưng có lẽ khi những bài hát tập thể ca ngợi quê hương đất nước vang lên và tất cả chúng tôi đều thành “ca sỹ”. Dường như một sức mạnh nào đó như được nhân lên, tôi cảm nhận được sự tự hào trong từng câu hát, hải đảo khi ấy gần đất liền hơn bao giờ hết, tình quân dân thực sự đã là sợi dây liên kết biển đảo với đất liền, đất liền với biển đảo.
Cuối cùng, chúng tôi cũng lại phải chia tay đảo để trở lại tàu chuẩn bị cho hải trình tiếp theo. Quả thực khi xuống xuồng về tàu tôi không dám nhìn quay lại đảo vì sợ bắt gặp những ánh mắt ngây thơ lưu luyến của những cậu bé, cô bé đứng trên bờ vẫy tay chào chúng tôi. Chỉ đến khi tàu rời cảng gần nửa giờ đồng hồ tôi mới ra boong nhìn về hòn đảo xinh đẹp- khi đó đã mờ mờ trong bóng hoàng hôn của biển.

Con tàu tiếp tục đưa chúng tôi đến với đảo Tiên Nữ, khi đến đảo cũng đã là giữa đêm 29/5, tàu phải neo lại ngoài đảo. Cả đêm đó, chúng tôi thao thức, chỉ mong trời mau sáng để được lên thăm đảo.
Khác với đảo Sinh Tồn, ở đảo Tiên Nữ chỉ có cán bộ, chiến sỹ sống và làm việc mà không có dân. Tại đây, chúng tôi gặp những người chiến sỹ tuổi đời còn rất trẻ, có anh lính vừa kết thúc huấn luyện là được ra đảo ngay. Khi tôi hỏi em ra đây lâu chưa? Có nhớ nhà không? Em bảo là ra được mấy tháng rồi, đến tháng 7 là được về thăm gia đình, em nói lần đầu xa nhà thấy nhớ nhưng ra đây được sự động viên của Chỉ huy đảo, đùm bọc của đồng chí nên an tâm công tác bảo vệ biển đảo của tổ quốc.

Rời Tiên Nữ chúng tôi lên tàu để đến với đảo Tốc Tan B, đảo này nằm trên một dải san hô và đá ngầm khá rộng. Lên thăm đảo, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt chúng tôi làm chúng tôi khá bất ngờ là cán bộ chiến sỹ ở đây trồng được rất nhiều rau xanh, nuôi được rất nhiều chó, những chú chó mà tôi nói có thể nhiều người không tin nhưng chúng có thể bơi như “vịt”.
Vì nằm trên dải san hô khá cạn nên đám thanh niên chúng tôi đua nhau xắn quần lội dọc mép nước để nhặt những vỏ ốc, vỏ sò về tặng bạn bè làm kỷ niệm, những chú chó biết bơi cứ hì hụp lội theo chúng tôi và rất thân thiện như là “bạn thân”.
Sau phần giao lưu, thăm hỏi và kết thúc bởi bài hát “Nối vòng tay lớn” của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, Đoàn chúng tôi lại phải chia tay cán bộ, chiến sỹ trên đảo để lên đường đi đảo Đá Đông B.
“Tất cả phải vì Trường Sa” bởi vì “Trường Sa đã vì cả nước”!
Ngày tiếp theo của hải trình là ngày cuối cùng của tháng 5, theo kế hoạch, Đoàn chúng tôi sẽ tới thăm đảo Đá Đông B và Trường Sa Đông. Đúng 6 giờ sáng 31/5 chúng tôi xuống xuồng lên đảo Đá Đông B. Trên đảo, cả Đoàn tập trung tại hội trường nhỏ để nghe đồng chí Chỉ huy đảo báo cáo kết quả công tác năm 2015 và 6 tháng đầu năm 2016. Quả thật tôi không thể hình dung được khối lượng công việc vô cùng lớn mà cán bộ chiến sỹ trên đảo phải đảm nhiệm và hoàn thành xuất sắc thời gian qua. Tôi càng cảm phục ý chí, nghị lực của những người chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam.
Ở đây, tôi rất may mắn được gặp một chiến sỹ quê Ninh Bình, là đồng hương với tôi. Hỏi chuyện biết em quê ở huyện Yên Khánh lại có vợ làm ngành Kiểm sát giống như tôi trước đây, em đã ra đảo lần này là lần thứ 6. Tôi cảm thấy rất tự hào là quê tôi cũng có những chiến sỹ đang góp phần bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Đến 13g30 cùng ngày, Đoàn chúng tôi lên thăm đảo Trường Sa Đông. Đảo có diện tích khá rộng với nhiều cây xanh nhưng đáng chú ý nhất là những cây bàng vuông đứng hiên ngang trước gió biển như thách thức những cơn gió biển dữ dội nhất. Điểm đầu tiên tôi ghé đó là cột mốc chủ quyền để chụp ảnh lưu niệm, sau đó theo chỉ dẫn của một chiến sỹ trẻ, tôi thắp hương trên ngôi mộ nằm ở góc đảo, đây là ngôi mộ của một liệt sỹ tuổi đời còn khá trẻ (anh sinh năm 1988) đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ trên đảo vào năm 2014.
Theo cảm nhận chung thì đảo Trường Sa Đông được quy hoạch khá quy củ, có hội trường, khu nhà ở chiến sỹ, có khu vực trồng rau, nuôi gia cầm biệt lập, tôi có cảm giác đảo khá tự chủ trong các nguồn thực phẩm. Cán bộ, chiến sỹ trên đảo phần lớn tuổi đời còn khá trẻ, vì vậy khi mới tiếp xúc với chúng tôi còn khá rụt rè nhưng đến phần giao lưu văn nghệ thì lại hết sức vui vẻ, nhiệt tình và nhiệt huyết của tuổi trẻ.
Đang phần giao lưu văn nghệ thì trời đổ mưa, rất nhanh chóng những người lính trẻ kéo bạt che mưa để cho các nghệ sỹ tiếp tục biểu diễn.Tham gia Đoàn có cả những nghệ sỹ của Liên đoàn Xiếc Việt Nam. Chương trình hôm đó còn có nội dung biểu diễn của nghệ sỹ Hương Liên. Do trời mưa, sợ không an toàn nên mọi người khuyên cô không nên biểu diễn. Nhưng cảm xúc dâng trào trước biển đảo quê hương, trước các chiến sỹ, cô đã quyết tâm biểu diễn tiết mục rất khó dưới trời mưa. Thú thật khi cô kết thúc thành công phần biểu diễn chúng tôi mới cảm thấy an tâm và thở phào nhẹ nhõm.

Chúng tôi lại chia tay với hòn đảo tươi đẹp này và các chiến sỹ thân yêu của Trường Sa Đông để đến với đảo Đá Tây B. Sáng sớm 01/6/2016, tàu cập đảo Đá Tây B, Đoàn chia hai nhóm, một tập trung ở phòng họp để nghe báo cáo hoạt động của đảo do đồng chí Chỉ huy đảo trình bày, số còn lại phần lớn là các bạn trẻ ở đoàn khối các cơ quan Trung ương trải chiếu dưới sàn nhà để giao lưu văn nghệ cùng các chiến sỹ trên đảo.
Vẫn những bài hát quen thuộc như: Năm anh em trên một chiếc xe tăng, Đời mình là một khúc quân hành, Nơi đảo xa, Người chiến sỹ ấy, Nối vòng tay lớn…, chúng tôi cứ hát, hát mãi mà không muốn dừng, tiếng hát hòa cùng sóng biển bay cao, bay xa, những ánh mắt ánh lên niềm kiêu hãnh.
Có một chi tiết cảm động và khá thú vị là khi một nghệ sỹ là thành viên trong Đoàn đang hát bài “Đừng ví em là biển” thì có một chàng lính trẻ tay cầm một cái vỏ ốc rất đẹp, quần áo ướt sũng từ đầu đến chân chạy đến bên cô ca sỹ lí nhí câu “Chị hát hay quá, tặng chị”, mấy cậu thanh niên trong Đoàn chọc cậu ấy và hô to “Ôm đi, ôm đi” làm chàng lính trẻ ngượng đỏ mặt chạy biến về phía sau.
Tôi liền đi theo hỏi “Em bị ngã hả?”, chàng lính ấy trả lời tôi rằng “Không, em vừa lội biển mò cái vỏ ốc tặng chị ca sỹ làm kỷ niệm”, tôi lặng người và quay mặt đi để giấu ánh mắt mình vì sợ chàng lính ấy nhìn thấy nơi khóe mắt tôi đang rớm lệ.
Khoảng 10 giờ cùng ngày, Đoàn chúng tôi lên tàu để “hành quân” tới đảo Trường Sa lớn. 16 giờ ngày hôm đó, tàu cập đảo, sau khoảng 20 phút neo tàu, cả Đoàn chúng tôi được tự do lên thăm quan đảo. Chương trình làm việc chính thức chỉ bắt đầu vào sáng 02/6 vì vậy chúng tôi có một buổi tối khá thoải mái thăm và giao lưu với cán bộ, chiến sỹ và Nhân dân trên đảo.
Bữa cơm tối thân mật trên đảo có nhiều món do cán bộ chiến sỹ tăng gia để chiêu đãi chúng tôi. Tôi không thể tin rằng ở chốn đảo xa lại được thưởng thức món khoái khẩu của nhiều người dân Việt Nam: Lòng lợn. Ăn món thịt lợn do các chiến sỹ trên đảo nuôi hoàn toàn sạch, tôi chợt nhớ lại cái cảm giác được thưởng thức món thịt lợn mà bố mẹ tôi nuôi cả năm mới được mấy chục cân để đến Tết làm thịt, sao nó thơm và ngon giống nhau đến vậy.
Hôm Đoàn đến đảo Trường Sa cũng là một ngày khá đặc biệt, đó là ngày 01/6, ngày Quốc tế thiếu nhi. Trên đảo có 14 em nhỏ, tất cả các cháu đều dưới 6 tuổi, vì vậy chúng tôi muốn tổ chức một buổi liên hoan văn nghệ đặc biệt để chúc mừng các cháu và cán bộ, chiến sỹ, Nhân dân trên đảo.
Buổi giao lưu văn nghệ bắt đầu lúc 19g30 nhưng khi mới 18g30 đã có rất đông chiến sỹ, các cháu thiếu nhi và bà con trên đảo tập trung tại khu vực diễn ra đêm giao lưu. Buổi giao lưu diễn ra khá hoành tráng và sôi động với sự tham gia của đông đảo chiến sỹ và các cháu thiếu nhi. Lại một lần nữa những bài hát ca ngợi quê hương đất nước lại vang lên giữa biển trời Trường Sa!
Sáng 02/6, tất cả Đoàn tập trung tại sảnh chính Sở chỉ huy đảo để dự lễ chào cờ và duyệt đội danh dự. Trong không khí trang nghiêm, dưới lá cờ Tổ quốc, một chiến sỹ đại diện đọc vang 10 lời thề quân nhân. Tôi cảm nhận được ý chí và quyết tâm sắt đá qua giọng nói và từng lời thề của anh. Kết thúc phần nghi lễ, đồng chí Trưởng Đoàn cùng toàn thể thành viên tiến hành làm lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ tại đài tưởng niệm trên đảo, vào nhà tưởng niệm viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, thắp hương tại chùa Trường Sa lớn sau đó tập trung tại hội trường để nghe báo cáo kết quả công tác của đồng chí Chỉ huy và dự buổi gặp mặt tặng quà cán bộ, chiến sỹ và Nhân dân trên đảo.
Thời gian như trôi thật nhanh trong những lúc chúng tôi ở đảo. 10 giờ, theo đúng lịch trình của đoàn, chúng tôi phải tạm biệt quân và dân ở Trường Sa.
Có lẽ hình ảnh đáng nhớ và xúc động nhất đối với tôi khi thăm đảo Trường Sa là giây phút chia tay "trên bến dưới thuyền". Tôi nhớ khi ấy, mặc dù trời nắng nóng khoảng 35 - 36 độ nhưng rất đông cán bộ, chiến sỹ và Nhân dân trên đảo đã xếp thành hai hàng dọc cầu tàu để tiễn chúng tôi. Khi tất cả chúng tôi đứng trên mạn tàu nhìn xuống và vẫy tay chào thì tất cả cán bộ, chiến sỹ và Nhân dân đồng thanh hô to “Trường Sa vì cả nước”, chúng tôi không ai bảo ai cũng đồng thanh hô vang “Cả nước vì Trường Sa”, thế rồi ai cũng chảy nước mắt. Hình ảnh ấy cứ hiển hiện trước mắt tôi cho đến tận bây giờ và chắc sẽ không phai nhạt mãi mãi về sau!

Chia tay đảo Trường Sa, chúng tôi lên tàu để đến với đảo Đá Lát. Theo kế hoạch, đến buổi chiều chúng tôi mới thăm Đá Lát, nhưng do thủy triều xuống nhanh nên phải thăm đảo ngay trong buổi trưa. Đồng chí Trưởng Đoàn quán triệt là chậm nhất 13 giờ phải quay lại tàu nếu không sẽ không ra khỏi đảo được vì nước rút xuồng không vào đón được. Mặc dù khi ấy đã khoảng 11 giờ, trời nắng chang chang nhưng tất cả các thành viên đều quyết tâm lên đảo để được gặp các chiến sỹ mà chúng tôi tin chắc rằng họ đã chờ đợi Đoàn chúng tôi từ rất sớm.
Vì sợ thủy triều xuống nhanh nên vừa đặt chân lên đảo, cả Đoàn bắt tay ngay vào việc theo đúng kế hoạch. Buổi gặp mặt kết thúc khoảng 12g45 phút, chúng tôi lại chia tay đảo để đến điểm cuối cùng của hải trình - Nhà giàn DK1.
Hiên ngang Nhà giàn
Trên hải trình tới Nhà giàn DK1, tàu chúng tôi neo trên biển khoảng 12 tiếng. Sáng 03/6, tàu đến Nhà giàn DK1/15, tại đây, lễ thả hoa tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ được diễn ra ngay trên boong tàu, sau đó cả Đoàn luân phiên nhau xuống xuồng để lên Nhà giàn. Được lên và tham quan Nhà giàn, chúng tôi thực sự cảm nhận được những khó khăn vất vả của cán bộ, chiến sỹ nơi đây.

Nhìn Nhà giàn đứng giữa biển cả bao la, tôi không hiểu khi mùa bão biển về các anh sẽ chống chọi với bão biển thế nào? Bởi chúng tôi biết có nhiều chiến sỹ ta đã hy sinh khi làm nhiệm vụ trên các Nhà giàn.
Thế mới biết, nếu không có tình yêu quê hương đất nước, vì biển đảo quê hương thì các anh không thể đứng vững trước muôn trùng khó khăn, vất vả. Tinh thần ấy của các anh tuy không nói ra nhưng nó truyền cho chúng tôi thêm sức mạnh để góp phần cùng các anh giữ vững biển đảo quê hương.
Cũng rất mừng là trong những năm qua, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các Nhà giàn trong đó có DK1 đã được cải tạo và nâng cấp theo hướng hiện đại hơn, khang trang hơn. Điều đó góp phần rất quan trọng trong việc động viên cán bộ, chiến sỹ hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Bản thân các thành viên trong Đoàn đều ý thức được rằng phải làm nhiều hơn nữa để xứng đáng với những hy sinh mất mát của các anh.
***
Tạm biệt Trường Sa thân yêu, con tàu 571 đưa chúng tôi về với đất liền sau chuyến hải trình dài hơn 10 ngày đêm. Khi vừa về đến đất liền tôi cũng như tất cả các thành viên trong Đoàn đều vội vàng cập nhật thông tin, đăng ảnh trên mạng xã hội, gửi tin nhắn để chia sẻ cùng bạn bè. Lướt qua những trang facebook, zalo của các thành viên trong Đoàn, tôi thấy tràn ngập những hình ảnh, những kỷ niệm, những chia sẻ cảm xúc về chuyến đi và hình như cũng giống cảm xúc của tôi, với mọi người đây có lẽ cũng là chuyến đi không bao giờ quên.
9 năm đã trôi qua, tôi và các "đồng chí" của tôi ngày ấy trên hải trình của con tàu 571 đã trở về với công việc thường nhật, có thể luân chuyển nhiều công việc, vị trí khác nhau, nhưng tất cả chúng tôi, sau chuyến đi ấy, càng thêm yêu đất nước quê hương mình, luôn tự nhủ phải phấn đấu học tập, làm việc nhiều hơn nữa, trách nhiệm hơn nữa để xứng đáng với những hy sinh thầm lặng của những chiến sỹ nơi đảo xa.