Anh dũng thời chiến - dấn thân thời bình

Song hành cùng lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là hình ảnh người lính 'Bộ đội Cụ Hồ' luôn được người dân tin yêu. Những chiến sĩ 'tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, phục vụ'.

Đồn Biên phòng Trung Lý phối hợp với Đại đội 215 (Lào) tuần tra song phương biên giới.

Đồn Biên phòng Trung Lý phối hợp với Đại đội 215 (Lào) tuần tra song phương biên giới.

1. Ngày 22/12/1944, tại một khu rừng thuộc tỉnh Cao Bằng, thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chính thức được thành lập với 34 chiến sĩ do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy.

Đây là đội quân chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng, cũng là tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

34 con người với 34 khẩu súng là những chiến sĩ kiên trung, quả cảm, cùng nắm chặt tay nhau, nguyện một lòng chiến đấu vì mục tiêu giải phóng dân tộc. Ngay khi ra đời, kế thừa kinh nghiệm đánh giặc ngoại xâm của ông cha - lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã đánh thắng kẻ địch từ những trận đầu - mở đầu cho truyền thống quyết chiến, quyết thắng của Quân đội, Nhân dân ta trong đấu tranh giải phóng dân tộc và kháng chiến bảo vệ Tổ quốc.

Tháng 5/1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân hợp cùng với lực lượng Cứu quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân, là lực lượng quân sự chủ lực của Mặt trận Việt Minh - tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

2. Cách mạng Tháng Tám thành công, đưa đất nước thoát khỏi sự áp bức bóc lột gần 100 năm của thực dân Pháp, xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước dã tâm xâm lược của kẻ thù, dân tộc Việt Nam lại bước vào cuộc kháng chiến vệ quốc trường kỳ 9 năm. Trong 9 năm ấy, với sự đóng góp tinh thần, vật lực của hậu phương Nhân dân, những chiến sĩ quân đội đã anh dũng chiến đấu, khép lại kháng chiến chống thực dân Pháp với “Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng!”.

Kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, đất nước Việt Nam lại bước vào cuộc chiến mới, cam go và khốc liệt, chống Đế quốc Mỹ- giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Lực lượng bộ đội giúp người dân xã Hoằng Giang dọn dẹp nhà cửa do ảnh hưởng bởi bão số 10.

Lực lượng bộ đội giúp người dân xã Hoằng Giang dọn dẹp nhà cửa do ảnh hưởng bởi bão số 10.

Nối tiếp thế hệ ông cha, những chàng trai, cô gái mang dòng máu Việt lại xung phong ra trận, gia nhập quân đội, cầm súng chiến đấu, hiến dâng cho Tổ quốc, vì một mục tiêu duy nhất là độc lập và toàn vẹn lãnh thổ.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975, khúc ca khải hoàn đã được hát vang trên khắp dải đất nước. Từ đây, đất nước Việt Nam là một, non sông, gấm vóc của tiên tổ đời nối đời gây dựng, mở mang đã được thống nhất. Chiến thắng ấy, được viết lên từ tình yêu đất nước, trách nhiệm với Tổ quốc, sự dâng hiến, chiến đấu quả cảm của triệu triệu đồng bào, chiến sĩ người Việt Nam. Tiếp nối tiền nhân, “Họ đã sống và chết/ Giản dị và bình tâm/ Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra Đất nước”.

Vì độc lập của dân tộc, hàng triệu người Việt Nam đã gác lại tuổi trẻ và ước vọng tuổi xuân, khoác ba lô ra trận, trở thành người lính chiến đấu. Sinh mệnh vốn vô cùng quý giá, nhưng khi Tổ quốc cần, mỗi người Việt Nam luôn sẵn sàng tận hiến.

Trong số hàng triệu chiến sĩ bộ đội chiến đấu anh dũng và ngã vào lòng đất mẹ trong cuộc chiến vệ quốc, có bác tôi, chú tôi. Bác tôi ra đi vào chiến trận, để lại người vợ trẻ với con nhỏ mới sinh còn chưa đầy tháng, cùng lời hứa sẽ trở về khi đất nước toàn thắng. Nhưng lời hứa ấy, bác tôi - một người lính chiến đấu vì Tổ quốc đã... “lỗi hẹn”.

Mùa hè năm 1971, chú tôi còn đang mừng vui khi nhận được giấy báo trúng tuyển vào Trường Đại học Y Hà Nội (khi ấy là Đại học Y khoa Hà Nội) thì cũng đồng thời nhận được giấy báo nhập ngũ. Gác lại niềm riêng, chú tôi cùng trai tráng trong làng lên đường ra trận. Mẹ tôi kể, trước khi vào chiến trường, chú còn “nhờ chị dâu ở nhà chăm bố mẹ già, khi trở về nhất định em sẽ tiếp tục học tập, để trở thành bác sĩ giỏi”. Nhưng đó mãi mãi là lời hứa, ước mơ của chàng trai tuổi hai mươi. Chú tôi không thể trở về. Nơi Thành cổ Quảng Trị, có một phần máu xương của chú tôi, nằm lại.

Đất nước thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, nhưng ở những vùng biên giới, súng vẫn nổ, những chiến sĩ thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam lại tiếp tục âm thầm cầm súng chiến đấu, bảo vệ biên giới, gìn giữ nền độc lập dân tộc.

3. Những chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam vốn anh dũng, quả cảm, chiến đấu với kẻ địch bằng ý chí sắt đá, không khoan nhượng. Nhưng trong lòng Nhân dân, họ lại được trìu mến gọi tên thân thương: “Bộ đội Cụ Hồ”- tên lãnh tụ gắn liền với tên lực lượng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Báo Quân đội Nhân dân dẫn lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp, rằng lúc bấy giờ “từ khu Giải phóng Việt Bắc, đồng bào các dân tộc đã trìu mến gọi các lực lượng đơn vị vũ trang là “Bộ đội Ông Ké” hay “Bộ đội Ông Cụ” một cách thân thương, chân chất như tấm lòng của đồng bào với lãnh tụ của mình”. Về sau, khi biết tên Bác, biết Bác là Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam nên Nhân dân đã gọi là “Bộ đội Cụ Hồ”.

Anh dũng trong thời chiến, những người lính Cụ Hồ trong thời bình tiếp tục phát huy tinh thần “vì Nhân dân quên mình”, không ngại khó, ngại khổ giúp dân vượt qua thiên tai, hoạn nạn... Những phẩm chất cao quý ấy mãi luôn tỏa sáng trong lòng dân.

Bài và ảnh: Thu Trang

Nguồn Thanh Hóa: https://vhds.baothanhhoa.vn/anh-dung-thoi-chien-dan-than-thoi-binh-40813.htm