Áo tơi một thời...
“Trời mưa thì mặc trời mưa, chồng tôi đi bừa đã có áo tơi”. Đó là câu ca dao từ thời xa xưa đã xuất hiện tại nhiều vùng ở nước ta và hình ảnh chiếc áo tơi có lẽ không xa lạ với nhiều người dân ở các vùng quê vào những năm giữa thế kỷ XX trở về trước. Đây là loại áo được chằm từ các loại lá cọ được trồng tại các khu vực rừng núi. Ở một số địa phương, do thiếu cọ, người ta còn dùng lá buông non hoặc lá dừa để thay thế. Tuy chẳng ai biết được áo tơi xuất hiện từ khi nào, nhưng có thể nói đây là vật dụng khá độc đáo mà cha ông ta đã sáng tạo, bao đời dùng nó để chống chọi với sự khắc nghiệt của thời tiết.
Ở vùng rừng núi quê tôi có loại cọ đặc biệt còn gọi là lá nón. Loại cọ này thấp, chiều cao chỉ hơn mét, lá non được dùng để chằm nón, còn lá già dùng để đan áo tơi. Tôi nhớ hồi nhỏ, vào các ngày nghỉ học, thỉnh thoảng tôi cùng một số bạn bè theo những người lớn tuổi vào rừng, trong khi người lớn tìm lá non của loại cây này về bán cho các làng nghề chằm nón, thì chúng tôi dùng liềm cắt những tàu lá già về để chằm tơi.
Chằm (hay còn gọi là đan) áo tơi là việc hầu như người lớn ở quê tôi ai cũng biết. Tuy không khó nhưng để có những chiếc áo đẹp và bền đòi hỏi người làm phải cẩn thận, công phu. Trong làng cũng có vài người nhận đan thuê, nhưng đa phần để đỡ tốn kém, các gia đình đều học hỏi nhau và thực hiện theo phương châm “tự cung, tự cấp”.

Mặc áo tơi ra đồng. Ảnh: Internet
Trong gia đình tôi, ngày xưa ba tôi hay đảm nhiệm việc này. Khi cắt lá mang về ông thường đốt rơm lên, hơ lá rồi trải từng lớp mỏng ra sân phơi mấy ngày liền cho thật khô. Theo ba tôi, khói rơm không chỉ làm cho những thanh lá mỏng thêm phần dẻo dai, có mùi thơm hơn, mà còn tránh không bị các loại mọt ăn. Mây để chằm cũng vậy, thường được chọn mây già, sợi thẳng, hơ qua lửa sau đó ngâm dưới ao vài tháng mới vớt lên chuốt thành từng sợi mỏng.
Khi vật liệu đã chuẩn bị đầy đủ, ba tôi dùng những sợi mây lớn buộc thành những đường song song vào một khung hình chữ nhật. Tiếp đó, ông lần lượt sắp từng lớp lá lên các sợi mây ấy, gấp đôi lại rồi dùng chiếc kim dài có xâu sợi mây nhỏ để chằm. Cứ vậy, từng lớp lá nối tiếp nhau được chằm từ dưới lên trên cho đến khi độ dài của chiếc áo tơi vừa với người mang. Cuối cùng, ba tôi dùng kéo cắt những chỗ thừa trên thân áo cho đẹp, gọn gàng, rồi xâu một sợi dây mềm phía trên cổ áo để khi sử dụng ai cũng dễ dàng quàng vào người và cột lại.
Trong nhà tôi, người lớn ba chằm áo tơi dài và rộng, hai bên nách còn xẻ hai cái lỗ để thò tay ra ngoài nhằm dễ dàng khi lao động. Với đám trẻ con, ba thường chằm loại áo nhỏ và ngắn, cũng ít khi xẻ chỗ nách vì công đoạn này rất mất công. Một chiếc áo tơi nếu biết giữ gìn có khi dùng được đến 4 hay 5 năm mới hỏng. Khi không sử dụng nữa, loại áo này có thể cuộn tròn lại để vác trên vai hay cắp nách mang về treo ở hiên.
Ở các vùng quê khác, đôi khi người ta dùng áo tơi cho cả việc chống nắng, nhưng ở quê tôi chủ yếu dùng để chống mưa. Cái hay của áo tơi là dù có gió mạnh, mưa to, nước cũng khó lọt vào trong. Không chỉ đi cày bừa, nhổ mạ, cấy lúa… mà cả khi ra chợ hay làm việc gì đó, thậm chí trong cưới hỏi người ta cũng đều mang chiếc áo tơi kèm theo chiếc nón lá trên đầu cho khỏi ướt. Những ngày đông, khi trời mưa phùn và gió đông bắc thổi về mang theo cái lạnh tái tê, có chiếc áo tơi, ai nấy sẽ trở nên ấm áp hơn.
Tuổi thơ chúng tôi gắn liền với làng quê, ruộng đồng, với việc chăn trâu, cắt cỏ. Quê nghèo, ăn còn thiếu nói chi đến các vật dụng sang trọng, nên chiếc áo tơi đã trở thành thứ thiết yếu khi mùa mưa tới. Lúc cho trâu ra đồng, nếu gặp nắng lên, chúng tôi cởi ra dựng thành hàng nơi bờ ruộng; lúc về của đứa nào đứa nấy cứ úp lên lưng trâu cho nó chở giúp. Nhiều bữa đi học, chúng tôi cũng mang áo tơi đến trường, có lúc gặp mưa to bất thường, mấy đứa cùng dùng chung một chiếc, căng ra để che nhau.
Giờ đây, cuộc sống văn minh, đầy đủ nên con người chẳng mấy ai dùng đến chiếc áo tơi đan bằng lá, nhưng kỷ vật ấy - sản phẩm đậm chất văn hóa vẫn còn neo đậu trong lòng của nhiều người đứng tuổi. Đó không chỉ đơn thuần là một đồ vật phục vụ che mưa, che nắng trong lao động ở nhiều gia đình, mà mỗi khi hồi tưởng về nó, lòng ta không khỏi rưng rưng nghĩ về ông bà, mẹ cha và bao người thân với chiếc áo tơi một thời lam lũ, lo toan để con cháu nên người…
Nguồn Khánh Hòa: http://www.baokhanhhoa.vn/van-hoa/sang-tac/202503/ao-toi-mot-thoi-8255ac3/