Áp lực lạm phát và đường hướng giải tỏa
Theo chuyên gia, việc 'bơm' tín dụng phải nhắm vào các động lực tăng trưởng bền vững, hoạt động sản xuất kinh doanh thực, phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 29/8/2025, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt 17,14 triệu tỷ đồng, tăng 11,08% so với cuối năm 2024. Ước tính, trong năm nay, tín dụng tăng khoảng 20,19% – cao nhất trong nhiều năm (so với mức trung bình khoảng 14,5%).
Trong khi đó, lãi suất cho vay bình quân đối với khoản vay mới hiện ở mức 6,38%, giảm gần 0,6 điểm phần trăm so với cuối năm ngoái.
Đà tăng tín dụng nhanh dẫn đến hai hệ quả chính: thứ nhất, các ngân hàng phải tăng huy động vốn, gây áp lực tăng lãi suất huy động và kéo theo lãi suất cho vay; và thứ hai, cung tiền gia tăng nhanh có thể gây áp lực lạm phát trong trung và dài hạn.
“Nếu để lạm phát vượt ngưỡng kiểm soát, chi phí để ổn định lại nền kinh tế sẽ rất lớn”, ông Đoàn Thái Sơn, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, nhấn mạnh tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 diễn ra mới đây.
Tín dụng sẽ tăng trưởng khoảng 18% - 20%
Tại báo cáo triển vọng các tháng cuối năm 2025 mới công bố, Công ty CP Chứng khoán Vietcombank (VCBS) kỳ vọng, tăng trưởng tín dụng năm 2025 sẽ bứt tốc, có thể đạt tới 18% - 20%, vượt mục tiêu cả năm do NHNN đề ra. Kỳ vọng này được đặt trong bối cảnh mặt bằng lãi suất thấp đang kích thích nhu cầu tín dụng, đặc biệt là đầu tư công được đẩy mạnh, pháp lý bất động sản dần được tháo gỡ, cùng với định hướng hỗ trợ kinh tế tư nhân, bao gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cùng với đó, NHNN đã chủ động nới trần tín dụng cho các ngân hàng từ tháng 7/2025, trong đó các ngân hàng lớn nhận chuyển giao bắt buộc sẽ được hưởng lợi đáng kể từ chính sách nới room tín dụng.
VCBS đánh giá, nhóm ngân hàng quốc doanh dù có tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm hơn nhưng cũng có nhiều điểm nhấn trong giai đoạn cuối năm. Trong khi đó, về phía, các ngân hàng tư nhân, MSB được kỳ vọng tăng trưởng tín dụng đạt 21,2% trong năm 2025.
Một số ngân hàng như ACB và Techcombank cũng được dự báo tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng tích cực trong năm 2025, được thúc đẩy bởi sự hồi phục rõ nét của nhóm khách hàng cá nhân, doanh nghiệp, thị trường bất động sản và xây dựng.

Nguồn: SSI Research
Trong khi đó, báo cáo về chiến lược đầu tư tháng 9 vừa được Trung tâm phân tích và tư vấn đầu tư SSI (SSI Research) công bố cho thấy, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng tốc trong tháng 8 với những con số nổi bật.
Chẳng hạn, giải ngân đầu tư công tăng 33% so với cùng kỳ, phản ánh tiến độ triển khai hạ tầng. Giải ngân FDI đạt kỷ lục 15,4 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ, trong khi FDI đăng ký cũng tăng mạnh, được dẫn dắt bởi công nghiệp chế biến chế tạo và bất động sản, cho thấy niềm tin của nhà đầu tư và tiến độ thực hiện dự án thực chất.
“Đặc biệt, tăng trưởng tín dụng ước đạt 20,19% so với cùng kỳ, vượt tăng trưởng GDP danh nghĩa nửa đầu 2025 (12,4%). Đối với tín dụng bất động sản, hiện chưa có kế hoạch siết chặt khi Thủ tướng khẳng định vai trò của lĩnh vực này như động lực tăng trưởng kinh tế, đồng thời nhấn mạnh cần có các giải pháp tổng thể để phát triển thị trường bền vững”, báo cáo của SSI Research nêu.
Dẫu vậy, SSI Research cũng lưu ý, tín dụng tăng 20,19% so với cùng kỳ cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng cũng đặt ra lo ngại về áp lực lạm phát.

Tính đến ngày 29/8/2025, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt 17,14 triệu tỷ đồng, tăng 11,08% so với cuối năm 2024. Ảnh: Hoàng Anh
Bàn về sức ép tăng lạm phát khi “bơm tiền” tăng mạnh, một chuyên gia kinh tế phân tích, hiện nay, VNĐ đang có xu hướng mất giá khá nhiều so với USD và ngoại tệ của một số nước. Trong khi nền sản xuất phụ thuộc nhập khẩu nguyên, phụ liệu đầu vào khá lớn, tỷ giá tăng sẽ bất lợi cho hàng hóa Việt Nam.
“Khi áp lực mất giá đồng nội tệ đến một mức nào đó sẽ đẩy vào giá cả hàng hóa tăng, làm tăng áp lực lạm phát”, vị chuyên gia nhấn mạnh.

Nguồn: SSI Research.
Bên cạnh đó, nếu tín dụng tăng nhưng dòng tiền lại không “chảy” vào sản xuất kinh doanh, nhất là khu vực sản xuất nội địa, mà ‘chảy’ vào vàng, chứng khoán hay bất động sản… sẽ có nguy cơ tạo "bong bóng tài sản", găm giữ vàng, USD... gây áp lực lên tỷ giá từ nay đến cuối năm; từ đó, tạo sức ép tăng giá lên một số hàng hóa trong rổ CPI, gây áp lực lạm phát cuối năm.
Có thực sự đáng lo?
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế - tài chính, cho hay, tình hình lạm phát có thể tăng trong năm nay là vì Chính phủ muốn đẩy mạnh tăng trưởng GDP từ 8,3-8,5%, đồng thời Ngân hàng Nhà nước được yêu cầu ‘đẩy’ tăng trưởng tín dụng lên đến 16%, nghĩa là đẩy lượng tiền rất lớn vào trong lưu thông.
“Với một mức tăng trưởng tín dụng cao như thế, rủi ro về lạm phát luôn đi kèm. Thành ra, nếu muốn kiểm soát lạm phát thì phải kiểm soát tốt vấn đề tín dụng, không những kiểm soát về tăng trưởng về mặt con số, định lượng mà về cả định tính, phải tăng trưởng tín dụng cho những khu vực sản xuất kinh doanh. Đồng thời, phải kiềm chế được dòng tín dụng đổ vào thị trường 2 (chứng khoán, bất động sản) - tức là thị trường mà tiền không vào sản xuất kinh doanh - mà chuyền tay giữa các nhà đầu tư với nhau”, ông Hiếu nói.
Theo chuyên gia này, vấn đề “bơm tiền” vào thị trường là đương nhiên để hỗ trợ nền kinh tế tăng trưởng, thế nhưng việc này phải được thực hiện một cách có cân nhắc và có đo lường.
Thứ nhất, chất lượng tín dụng phải cao, phải đổ tiền vào khu vực sản xuất kinh doanh, hạn chế đổ tiền vào thị trường 2 - thị trường làm tăng giá, từ đó đưa đến lạm phát.
Thứ hai, năm nay là năm đang có nhiều biến động trên thị trường liên quan đến vấn đề ngoại thương, thuế quan… Vì vậy, Chính phủ cần cân nhắc mức tăng trưởng GDP 8,3-8,5%, nếu cần điều chỉnh thì nên điều chỉnh giảm để kiềm chế lạm phát.
Trong khi đó, ông Trương Hiền Phương, Giám đốc cấp cao chứng khoán KIS Việt Nam nhận định, nếu chỉ căn cứ vào tăng trưởng tín dụng thì cũng chưa thể chắc chắn sẽ làm gia tăng lạm phát. Bởi lẽ, hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang rất thành công trong nghiệm vụ bơm, hút tiền bên ngoài thị trường mở.
“Ví dụ như Ngân hàng Nhà nước cho tăng trưởng tín dụng nhưng khi thị trường có những tín hiệu cho thấy lượng cung tiền quá nhiều thì chắc chắn sẽ phát hành kỳ phiếu, tín phiếu hay trái phiếu kho bạc để hút tiền về, kể cả như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là những công cụ mà Ngân hàng Nhà nước thời gian qua điều hành rất hiệu quả”, ông Phương nói.
Theo chuyên gia này, về yếu tố chính sách tiền tệ thì ông đặt niềm tin rằng Ngân hàng Nhà nước sẽ xử lý tốt chứ không hẳn “thả” cho tăng trưởng tín dụng cao dẫn đến lạm phát.
Một yếu tố khác mà vị chuyên gia của KIS Việt Nam muốn chia sẻ, đó là lạm phát ngoài nguyên nhân đến từ tiền tệ (việc cung tiền quá lớn), thì lạm phát còn có thể đến từ chi phí đẩy. Đó là các loại chi phí bị đẩy lên cao từ đó tạo ra lạm phát. Ở đây, cũng chưa có nhiều dấu hiệu cho thấy chi phí đang bị đội giá.
“Nhìn chung, từ nay đến cuối năm, công tác kiểm soát giá cả, công tác kiểm soát tiền tệ không chỉ về phía Ngân hàng Nhà nước mà cả phía Chính phủ, các sở ban ngành như Bộ Tài chính đang kiểm soát giá cả rất tốt”, ông Phương nói và nhấn mạnh, lạm phát có thể cũng sẽ chỉ xoay quanh ngưỡng 4% mà Quốc Hội đã đề ra.
Nguồn Nhà Quản Trị: https://theleader.vn/ap-luc-lam-phat-va-duong-huong-giai-toa-d41983.html