Ba chiến thắng lịch sử của dân tộc diễn ra vào năm Tỵ
Những chiến thắng này không chỉ mở ra một thời kỳ thái bình, độc lập cho nước nhà mà còn khẳng định sức mạnh của dân tộc Việt Nam trước quân xâm lược phương Bắc.
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã ghi nhiều dấu ấn đậm nét với những chiến thắng lịch sử diễn ra vào các năm Tỵ.
Chiến thắng mở đầu cho kỷ nguyên bách thắng phong kiến phương Bắc
Cuối năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng và con trai Đinh Liễn bị ám sát, Vệ Vương Đinh Toàn 6 tuổi lên kế vị. Nhân cơ hội này, nhà Tống liền động binh để thôn tính nước ta.
Trước họa xâm lăng, do vua Đinh Toàn còn nhỏ không thể gánh vác việc nước, Dương Thái hậu đã tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm vua chỉ đạo cuộc kháng chiến.
Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn (tức vua Lê Đại Hành) một mặt tiếp tục củng cố triều chính, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến; mặt khác, cử người đi sứ sang nhà Tống dâng biểu xin tập vị cho Đinh Toàn, tìm kế hoãn binh. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực ngoại giao của nhà Tiền Lê, nhà Tống vẫn quyết tâm thôn tính Đại Cồ Việt.
Tháng 3 năm 981, vua Tống cử nhiều tướng giỏi chia thành ba mũi tấn công vào nước ta. Vua Lê Đại Hành tự làm tướng đi chặn giặc. Với tài thao lược của mình, vua đã tổ chức, động viên quân và dân cả nước đoàn kết, tạo sức mạnh tổng hợp, đánh bại cuộc xâm lược của giặc.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa Xuân, tháng 3, Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Độ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua tự làm tướng chống giữ, sai binh sĩ đóng cọc ngăn sông, quân Tống rút lui. Lại tiến sông Chi Lăng. Vua sai binh sĩ giả hàng để dụ Nhân Bảo, bắt được chém đi. Bọn Khâm Tộ nghe tin thủy quân thua đem quân về. Vua đem các tướng đuổi đánh, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chất đầy đồng, bắt được tướng là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân, đem về Hoa Lư. Từ đấy trong nước yên tĩnh”.
Đại thắng trước quân Tống năm Tân Tỵ (981) có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc Việt Nam. Chiến thắng này đã mở đầu cho kỷ nguyên nước Việt bách thắng phong kiến phương Bắc và tạo ra một thời kỳ thái bình, độc lập cho nước nhà.
Chiến thắng khẳng định sức mạnh đoàn kết của dân tộc
Sau thất bại của lần xâm lược thứ nhất, nhà Tống luôn giữ quyết tâm xâm lược nước Việt. Từ sau năm 1072, thấy nước ta vừa trải qua cuộc chiến tranh đánh Chiêm Thành ở phía Nam, vua nối ngôi còn nhỏ tuổi nên nhà Tống lại có nhiều hành động chuẩn bị xâm lược.
Để nhằm mục đích triệt phá căn cứ tập trung quân và lương thảo làm giảm sức mạnh, ý chí, hành động xâm lược của quân Tống, tạo tiền đề cho việc giành thắng lợi trong chiến tranh, cuối năm 1075, Thái úy Lý Thường Kiệt đã thống lãnh hơn 10 vạn quân, chia đường sang đánh Tống, chiếm được châu Khâm, châu Liêm, châu Ung, đóng ở đó một thời gian rồi rút quân về.
Năm 1076, nhà Tống sai tuyên phủ xứ Quách Quỳ và Triệu Tiết đem đại binh đánh sang Đại Việt. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Đến sông Như Nguyệt, đánh tan quân địch. Quân Tống bị chết đến hơn 1.000 người. Quách Quỳ lui quân. […] Tục truyền rằng Lý Thường Kiệt đắp lũy làm rào ở dọc sông để cố giữ. Một đêm, các quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng ngâm to rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Bước sang năm Đinh Tỵ (1077), cuộc chiến đấu rơi vào thế giằng co. Tháng 3, Lý Thường Kiệt đem đại binh sang đánh hai châu Khâm, Liêm. Tháng 12, Triệu Tiết sang lấn không được đành rút quân về, đánh dấu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần hai kết thúc với thắng lợi thuộc về quân dân Đại Việt.
Đánh bại đế quốc Mông Cổ hùng mạnh
Vào thế kỷ 13, sau khi thống nhất các bộ lạc, lập ra Đại Mông Cổ quốc, Thành Cát Tư Hãn bắt đầu mở những cuộc xâm lăng ra nước ngoài. Từ một bộ tộc ở vùng thảo nguyên châu Á, sau nửa thế kỷ chinh phạt, Mông Cổ đã trở thành một đế quốc hùng mạnh có lãnh thổ rộng lớn từ châu Á đến châu Âu.
Năm Đinh Tỵ (1257), quân Mông Cổ tiến xuống phương Nam, xâm lược Đại Việt, nhằm tạo bàn đạp và thế gọng kìm đánh lên Nam Tống. Đứng trước nguy cơ đất nước bị xâm lược, nhà Trần đã chú ý phòng ngự, lệnh cho cả nước khẩn trương chuẩn bị đánh giặc.
Tháng 10 năm 1257, vua Trần Thái Tông xuống chiếu điều quân thủy bộ tăng cường bố phòng cho miền biên giới tây bắc, lệnh cho cả nước sắm sửa vũ khí, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến.
Tháng 12 năm Đinh Tỵ (1257) tức đầu tháng 1 năm 1258, nhà Nguyên huy động ba vạn quân kỵ, bộ cùng nhiều tướng giỏi, chia làm hai đạo theo đường sông Thao tiến vào nước ta. Vua Trần Thái Tông tự làm tướng đem quân đi chống cự. Đến ngày 29 tháng 1 năm 1258 tức ngày 24 tháng Chạp năm Đinh Tỵ, quân đội nhà Trần phản công, đánh tan giặc ở Đông Bộ Đầu (khu vực Long Biên - Hà Nội ngày nay).
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 12, ngày 12, tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Đài xâm lấn Bình Lệ. Vua tự làm tướng đốc chiến xông pha tên đạn. […] Ngày 24, vua và thái tử ngự thuyền lầu tiến quân đến bến Đông đón đánh, phá được quân giặc. Quân Nguyên trốn về”.
Chiến thắng Đông Bộ Đầu cuối năm Đinh Tỵ (1257), đầu năm 1258 kết thúc cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất. Nhờ chiến thắng này, đất nước Đại Việt mới có được mùa xuân thái bình ngay sau đó, tạo tiền đề vững chắc để về sau đối đầu với quân Nguyên trong hai lần xâm lược gần 30 năm sau đó.
Nguồn Znews: https://znews.vn/ba-chien-thang-lich-su-cua-dan-toc-dien-ra-vao-nam-ty-post1528415.html