Ba kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2023
Sáng 22/4, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo 'Thúc đẩy phục hồi kinh tế và cải cách thể chế sau đại dịch Covid-19: Đề xuất cho Việt Nam'.
Báo cáo được thực hiện dưới sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) và Đại sứ quán Australia tại Việt Nam.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho rằng, kể từ đầu năm 2020, Việt Nam phải đối mặt với hai làn sóng bùng phát của đại dịch Covid-19. Với phản ứng quyết liệt và khá sớm, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia được đánh giá là tương đối thành công trong kiểm soát Covid-19.
Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo và điều hành của Chính phủ đã thể hiện những bước chuyển phù hợp, linh hoạt, song kiên định với “mục tiêu kép”, vừa quyết liệt phòng chống dịch hiệu quả; vừa tập trung phục hồi và thúc đẩy sản xuất trong nước.
Các cải cách về môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp... tiếp tục có sự liền mạch với các năm trước. Các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế mới tiếp tục được nghiên cứu, cân nhắc, bên cạnh việc rà soát, điều chỉnh quy định liên quan đến tiếp cận một số gói hỗ trợ trước đó (về tín dụng, thuế, an sinh xã hội…).
Theo TS. Trần Thị Hồng Minh, với việc tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh trong những tháng đầu năm 2021, các hoạt động kinh tế-xã hội trong cả nước tiếp tục đà phục hồi.
Ngay trong bối cảnh đại dịch, Việt Nam vẫn chứng kiến những diễn biến khá sôi động về hội nhập kinh tế quốc tế như phê chuẩn và thực thi Hiệp định Thương mại Tự do giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam (EVFTA), Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) hay ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP).
Song song với đó, Việt nam cũng ghi dấu trong các hoạt động đối ngoại như vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA 41 và Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, Viện trưởng CIEM cũng cảnh báo rằng, mặc dù được đánh giá là một trong số ít các quốc gia thành công trong kiểm soát đại dịch Covid-19, tạo tiền đề cho phục hồi và thúc đẩy sản xuất trong nước, tái mở cửa kinh tế an toàn, nhưng Việt Nam cũng cần xây dựng một kế hoạch dài hơi hơn, tránh rủi ro "cạn kiệt" không gian chính sách và giảm động lực cải cách thể chế kinh tế.
TS. Trần Thị Hồng Minh đánh giá, nếu nền kinh tế chậm phục hồi, cải cách thể chế kinh tế cũng sẽ thiếu sự đồng thuận hoặc không tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế.
Viện trưởng CIEM cho biết, Báo cáo "Thúc đẩy phục hồi kinh tế và cải cách thể chế sau đại dịch Covid-19: Đề xuất cho Việt Nam" của CIEM cũng đề xuất định hướng và lộ trình chính sách cho giai đoan 2021-2023.
Năm 2021, Việt Nam cần tiếp tục phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả, tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp và người lao động, kết hợp cải cách thể chế kinh tế.
Năm 2022, CIEM khuyến nghị nên kết hợp giải pháp phục hồi kinh tế và cải cách thể chế kinh tế.
Đến năm 2023, Việt Nam có thể rút dần các giải pháp hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế và tập trung vào cải cách thể chế kinh tế.
CIEM cho hay, triển vọng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2023 được đánh giá dựa trên 3 kịch bản gồm kịch bản bình thường; kịch bản trong bối cảnh nới lỏng tài khóa và tiền tệ; kịch bản nếu có biện pháp nới lỏng tài khóa và tiền tệ, cùng với cải cách thể chế.
Theo đó, nếu chỉ nới lỏng tài khóa và tiền tệ, tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn song đi kèm với áp lực lạm phát lớn hơn.
Nếu đạt được những đột phá trong chất lượng cải cách thể chế dẫn tới cải thiện chất lượng tăng trưởng song hành với các biện pháp nới lỏng tài khóa và tiền tệ đúng trọng tâm, đúng thời điểm, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình có thể đạt tới 6,76%/năm giai đoạn 2021-2023, đi kèm cải thiện đáng kể về năng suất. Khi đó, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi tăng trưởng nhanh và bền vững hơn, ngay cả khi kinh tế thế giới còn nhiều bất định.