Ba lĩnh vực nền tảng cho sự vươn mình mạnh mẽ của đất nước

Theo GS.TS Lê Vân Trình - Chủ tịch Hội KHKT An toàn, vệ sinh lao động Việt Nam, ba lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo và đội ngũ trí thức Việt Nam có mối quan hệ hữu cơ, tạo thành tam giác phát triển tri thức – sáng tạo – con người.

Công tác chuẩn bị Văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc là nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa chiến lược, định hướng cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Việc lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ trí thức, nhà khoa học, nhà giáo, văn nghệ sĩ và doanh nhân, thể hiện tinh thần dân chủ, cầu thị và trí tuệ tập thể của Đảng ta. Đây không chỉ là quá trình chuẩn bị văn kiện, mà còn là dịp để toàn xã hội thể hiện trách nhiệm công dân và khát vọng đồng hành cùng Đảng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 GS.TS. Lê Vân Trình - Chủ tịch Hội KHKT An toàn, vệ sinh lao động Việt Nam

GS.TS. Lê Vân Trình - Chủ tịch Hội KHKT An toàn, vệ sinh lao động Việt Nam

Đối với đội ngũ trí thức Việt Nam, đây là thời điểm quan trọng để phát huy trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần phụng sự đất nước. Việc đóng góp ý kiến cho Văn kiện Đại hội Đảng không chỉ mang giá trị học thuật mà còn là hành động chính trị – xã hội thể hiện lòng trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân và con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã lựa chọn.

Tập trung vào 3 lĩnh vực có ý nghĩa đối với tương lai đất nước gồm: Khoa học và công nghệ (KHCN); Giáo dục và đào tạo và Đội ngũ trí thức Việt Nam, có thể thấy, 3 lĩnh vực này có mối quan hệ hữu cơ, tạo thành tam giác phát triển tri thức – sáng tạo – con người, là nền tảng cho sự vươn mình mạnh mẽ của đất nước trong kỷ nguyên số và hội nhập toàn cầu.

Trên cơ sở đó, tôi cũng đề xuất một số quan điểm, định hướng và giải pháp trọng tâm cho giai đoạn phát triển mới, với mục tiêu xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, công bằng và nhân văn; phát triển KHCN trở thành động lực then chốt của tăng trưởng và phát huy, trọng dụng đội ngũ trí thức như nguồn lực nội sinh quan trọng của quốc gia. Tất cả nhằm hướng tới mục tiêu chung là phát triển nhanh, bền vững, dựa trên tri thức, đổi mới sáng tạo và hội nhập sâu rộng, để Việt Nam vươn mình trở thành nước phát triển, có vị thế xứng đáng trên thế giới.

Phát triển KHCN, động lực then chốt cho tăng trưởng

Sau gần 40 năm đổi mới, KHCN đã trở thành một trong những trụ cột của tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng vào năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, đóng góp của KHCN vào GDP mới đạt khoảng 30%, thấp hơn nhiều so với mức 60–70% ở các nước công nghiệp phát triển. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo chưa hoàn chỉnh; đầu tư cho R&D còn thấp; cơ chế chính sách còn ràng buộc, chưa khuyến khích sáng tạo và thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.” (Nghị quyết Đại hội XIII, phần II – Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021–2030).

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc hiện thực hóa định hướng này còn nhiều hạn chế. Kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế số tuy đã được khởi động, nhưng thiếu sự đồng bộ về thể chế, nhân lực và đầu tư hạ tầng dữ liệu.

Do vậy, Văn kiện Đại hội XIV cần làm rõ hơn mô hình phát triển kinh tế mới, trong đó nhấn mạnh: Đặt KHCN và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu của tăng trưởng; Xây dựng chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp KHCN; Tăng đầu tư cho nghiên cứu và chuyển giao tri thức giữa viện – trường – doanh nghiệp.

 Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Để đưa KHCN thực sự trở thành động lực then chốt của công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, cần tập trung vào những định hướng lớn sau:

Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý KHCN theo hướng mở, linh hoạt, hiệu quả: Nhà nước đóng vai trò kiến tạo và định hướng chiến lược, tập trung đầu tư cho các lĩnh vực nền tảng và mũi nhọn; đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tự chủ sáng tạo, chủ động nghiên cứu và thương mại hóa kết quả. Cần mạnh dạn thực hiện cơ chế khoán theo sản phẩm, đặt hàng nhiệm vụ nghiên cứu gắn với nhu cầu thị trường và phát triển vùng, ngành.

Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia: Hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo vùng, khu công nghệ cao, quỹ đầu tư mạo hiểm; thúc đẩy liên kết viện – trường – doanh nghiệp; phát triển mạnh các công nghệ lõi của Cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ sinh học, vật liệu mới, năng lượng sạch.

Tăng đầu tư và hiệu quả sử dụng nguồn lực cho KHCN: Ngân sách nhà nước ưu tiên cho các nhiệm vụ chiến lược, đồng thời khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào R&D thông qua cơ chế ưu đãi thuế, tín dụng, sở hữu trí tuệ. Hình thành Quỹ đầu tư xanh quốc gia và Quỹ hỗ trợ thương mại hóa công nghệ.

Đặc biệt, cần mở rộng cơ chế đấu thầu, đặt hàng rộng rãi các đề tài, dự án sử dụng ngân sách sự nghiệp khoa học cho các tổ chức khoa học thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các viện, trung tâm nghiên cứu ngoài công lập, nhằm khơi dậy tiềm năng của hơn 3 triệu trí thức trong hệ thống các hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Để đạt được đột phá, cần đổi mới cơ chế quản lý và đầu tư cho KHCN. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, định hướng chiến lược, tập trung đầu tư cho các lĩnh vực nền tảng và mũi nhọn, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tự chủ sáng tạo trong nghiên cứu và thương mại hóa kết quả khoa học. Cần đẩy mạnh cơ chế khoán theo sản phẩm đầu ra, gắn nhiệm vụ khoa học với nhu cầu phát triển ngành, vùng, địa phương. Các chương trình trọng điểm quốc gia nên có đầu mối chịu trách nhiệm sản phẩm cuối cùng thay vì cơ chế xin – cho, chia nhỏ nhiệm vụ như hiện nay.

Phát triển nguồn nhân lực KHCN chất lượng cao: Xây dựng chương trình quốc gia đào tạo chuyên gia đầu ngành; thúc đẩy hợp tác quốc tế, trao đổi học giả; có chính sách tôn vinh, đãi ngộ xứng đáng và bảo vệ quyền lợi của nhà khoa học. Việt Nam có thể tận dụng lực lượng kỹ sư trẻ, năng động, đang làm việc trong các doanh nghiệp FDI lớn để hình thành các trung tâm công nghệ cao, khu công nghiệp bán dẫn, công viên phần mềm tầm quốc gia, hướng đến mục tiêu đến năm 2035, Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và thiết kế chip ở khu vực Đông Nam Á.

Việt Nam nên tập trung vào các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn có khả năng lan tỏa cao như: công nghệ thông tin – bán dẫn, công nghệ sinh học – dược phẩm, năng lượng tái tạo, công nghệ vật liệu mới và sản xuất thông minh. Đặc biệt, cần mở rộng cơ chế đấu thầu – đặt hàng nhiệm vụ khoa học cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các viện và trung tâm nghiên cứu ngoài công lập, để phát huy tiềm năng của hơn ba triệu trí thức trong hệ thống Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo, xây dựng con người Việt Nam hiện đại, nhân văn

Giáo dục và đào tạo có vai trò then chốt trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần trực tiếp vào năng lực cạnh tranh của quốc gia. Những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ về phổ cập giáo dục, mở rộng quy mô đào tạo và hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục chưa đồng đều; năng lực tự chủ của các cơ sở giáo dục còn hạn chế; đổi mới chương trình, phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá còn chậm so với yêu cầu chuyển đổi số và phát triển xã hội tri thức. Việt Nam cần thực hiện chuyển đổi từ mô hình truyền thụ kiến thức sang mô hình phát triển năng lực và sáng tạo, gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục – khoa học – sản xuất.

 Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Để giáo dục thực sự trở thành nền tảng phát triển con người Việt Nam toàn diện, gắn với khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cần tập trung vào các định hướng.

Cụ thể, đổi mới thể chế và cơ chế quản lý giáo dục: Thực hiện phân cấp, trao quyền tự chủ thực chất cho các cơ sở giáo dục; chuyển vai trò Nhà nước từ “quản lý” sang “kiến tạo và giám sát chất lượng”. Gắn giáo dục với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và thị trường lao động.

Đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện trong giáo dục: Xây dựng kho học liệu số dùng chung, ứng dụng AI trong giảng dạy – kiểm tra – đánh giá; phát triển mô hình học tập mở, học tập suốt đời, bảo đảm cơ hội học tập bình đẳng cho mọi người.

Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục: Có chính sách đãi ngộ, tôn vinh và bảo đảm điều kiện làm việc xứng đáng để đội ngũ nhà giáo toàn tâm với nghề; khuyến khích sáng tạo trong dạy, học và nghiên cứu khoa học.

Thúc đẩy mô hình gắn kết giữa giáo dục – khoa học – sản xuất: Mở rộng mô hình “3 bên” (Nhà nước – Doanh nghiệp – Nhà trường) và “Đại học ứng dụng” theo hướng đào tạo gắn thực tiễn, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức.

Chú trọng công bằng trong tiếp cận giáo dục: Ưu tiên chính sách học bổng, tín dụng học tập cho học sinh nghèo, vùng khó khăn; phát triển giáo dục hòa nhập; mở rộng các trung tâm đào tạo nghề xanh và an toàn lao động thông minh gắn với công nghiệp 4.0.

Phát huy và trọng dụng đội ngũ trí thức, nguồn lực nội sinh của dân tộc

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ, trí thức là vốn quý của dân tộc; nếu biết trọng dụng, sẽ làm cho nước nhà hưng thịnh.” (báo Cứu quốc 20/11/1948).

Đội ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong sáng tạo tri thức, chuyển giao công nghệ và định hướng phát triển xã hội. Trong giai đoạn mới, khi tri thức trở thành tài nguyên quý giá nhất, thì trí thức chính là vốn xã hội đặc biệt, là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển bền vững. Mặc dù đã có nhiều chính sách quan tâm, song vẫn còn những bất cập: Sử dụng và đãi ngộ chưa tương xứng; cơ chế phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân tài còn hình thức; chưa phát huy được tiềm năng của đội ngũ trí thức Việt kiều.

Trong thời kỳ mới, cần coi trí thức là lực lượng nòng cốt của công cuộc chấn hưng đất nước. Vì thế, cần xây dựng Chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2045, gắn với chiến lược phát triển KHCN quốc gia; Có cơ chế trọng dụng, đãi ngộ trí thức, không phân biệt đối xử để họ yên tâm cống hiến trong và ngoài khu vực công; Phát huy vai trò của các hội xã hội nghề nghiệp, nơi tập hợp các trí thức thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong phản biện, tư vấn và giám định xã hội đối với chính sách khoa học, công nghệ và giáo dục.

Đồng thời, triển khai đồng bộ các giải pháp. Trong đó, hoàn thiện chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Ban hành cơ chế đặc thù về tuyển dụng, đãi ngộ chuyên gia cao cấp trong viện nghiên cứu, đại học, doanh nghiệp nhà nước và tư nhân. Cho phép “đặt hàng trí thức” thực hiện nhiệm vụ chiến lược theo hợp đồng kết quả.

Xây dựng môi trường làm việc tôn trọng tri thức và sáng tạo: Đổi mới cơ chế đánh giá, bổ nhiệm dựa trên năng lực và hiệu quả thực tiễn. Xây dựng văn hóa “tôn trọng tri thức, đề cao sáng tạo”, khơi dậy lòng tự hào nghề nghiệp, tinh thần cống hiến.

Kết nối trí thức Việt Nam toàn cầu: Thành lập “Mạng lưới trí thức Việt Nam toàn cầu” do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam chủ trì, kết nối chuyên gia trong và ngoài nước, tạo nền tảng cho các chương trình hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo xuyên biên giới.

Tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội trong phát huy trí thức: MTTQVN và các hội thành viên cần được giao mạnh hơn nhiệm vụ tư vấn, phản biện, giám định chính sách trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và giáo dục, qua đó khẳng định vai trò “cầu nối” giữa trí thức với Đảng và Nhà nước.

Bốn mươi năm đổi mới đã chứng minh rằng độc lập dân tộc gắn liền với đổi mới sáng tạo là con đường đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển. Trong giai đoạn tới, khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo là hai trụ cột nền tảng trong mô hình phát triển đất nước thời kỳ mới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc “lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính; lấy giáo dục đào tạo, phát triển con người làm trung tâm” không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là đòi hỏi cấp bách của thực tiễn phát triển.

Với niềm tin và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Đảng và Nhà nước sớm thể chế hóa và triển khai mạnh mẽ các cơ chế, chính sách đặc thù cho KHCN và giáo dục đào tạo. Đây chính là con đường ngắn nhất để Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát triển, nâng cao vị thế quốc gia, thực hiện thành công mục tiêu trở thành nước công nghiệp phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

GS.TS Lê Vân Trình - Chủ tịch Hội KHKT An toàn, vệ sinh lao động Việt Nam

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/ba-linh-vuc-nen-tang-cho-su-vuon-minh-manh-me-cua-dat-nuoc-post1583135.html