Bài 1: Dấu ấn 5 năm thực hiện Dự án 6
Văn hóa của các dân tộc thiểu số không chỉ là một bộ phận cấu thành quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam, mà còn là kho tàng quý báu làm nên bản sắc dân tộc độc đáo, giàu giá trị nhân văn. Trong dòng chảy phát triển, những giá trị văn hóa ấy chính là nền tảng để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ những bản làng heo hút ở Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên nơi vùng cao phía Bắc, cho đến vùng đất đỏ bazan Tây Nguyên, rồi đến các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Dự án 6 đã âm thầm khơi dậy những giá trị văn hóa tưởng chừng đã ngủ quên, thổi bừng sức sống cho di sản giữa lòng cộng đồng.
Sau 5 năm triển khai Dự án 6, hàng trăm mô hình bảo tồn, lễ hội dân gian, câu lạc bộ văn hóa dân tộc đã trở thành nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa bảo tồn di sản và phát triển du lịch cộng đồng bền vững.

Dự án 6 đã góp phần “đánh thức” những giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc đang tiềm ẩn trong cộng đồng
Đồng bộ từ thể chế đến hành động – lan tỏa từ di sản đến cộng đồng
Ngay từ khi bắt đầu, Dự án 6 về “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”, đã được xác định là một trong những trụ cột quan trọng trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021–2025.
Với vai trò chủ trì, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Dân tộc( nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo), các bộ ngành liên quan và chính quyền các địa phương. Đến nay, toàn bộ 51 tỉnh, thành có đồng bào dân tộc sinh sống đã thành lập Ban Chỉ đạo, Văn phòng điều phối cấp tỉnh và kiện toàn bộ máy tổ chức thực hiện Dự án 6.
Tổng vốn đầu tư giai đoạn I là 3.160 tỉ đồng, trong đó vốn đầu tư phát triển và vốn sự nghiệp được phân bổ hợp lý. Tính đến hết năm 2024, tỉ lệ giải ngân đạt trung bình 60–63%, với dòng vốn ưu tiên đổ về các “điểm nóng”, nơi di sản có nguy cơ mai một hoặc biến mất.
Một trong những dấu ấn nổi bật nhất là khả năng “đánh thức” những giá trị văn hóa đang tiềm ẩn trong cộng đồng. Dự án đã tổ chức bảo tồn, phục dựng nhiều lễ hội truyền thống tiêu biểu như: Lễ hội Mường Lập của người Mường, Lễ cúng dòng họ của người Mông, Tết cơm mới của người Giáy, Lễ tế thần nước của người Pa Cô, Lễ hội Peng Neng của người Tơ Đra… những di sản mang đậm bản sắc vùng miền và tín ngưỡng dân gian.

Những di sản văn hóa mang đậm bản sắc vùng miền và tín ngưỡng dân gian các dân tộc thiểu số đã được khơi dậy mạnh mẽ
Song song với đó, 36 mô hình bảo tồn văn hóa phi vật thể đã được triển khai. Có thể kể đến: Nghệ thuật múa khèn của người Mông (Bắc Kạn), trò Soóng Cọ của người Sán Chỉ (Quảng Ninh), Lễ hội dâng trâu tế Trời của người Thái (Thanh Hóa), Lễ hội Chol Chnam Thmay của người Khmer (Tây Ninh), Nghề làm gốm của người Chăm (Ninh Thuận); hát Páo dung của dân tộc Dao thuộc nhóm Dao Đỏ (Bắc Kạn), Nhạc trống lớn dân tộc Kh’mer (Cà Mau)… Tất cả đều được phục dựng công phu, gắn với đời sống đương đại của cộng đồng.
Đặc biệt, 11 mô hình đã kết nối thành công giữa bảo tồn di sản và du lịch cộng đồng, giúp văn hóa thoát khỏi “khung kính trưng bày” và hòa vào đời sống. Những tour du lịch trải nghiệm mùa lễ hội, nghề thủ công, ẩm thực bản địa… đã mang lại sinh kế thực sự cho người dân bản địa.

Dự án 6 cũng đặc biệt chú trọng đến đào tạo, truyền dạy và tôn vinh những “báu vật sống” trong cộng đồng
Không dừng lại ở các hoạt động đơn lẻ, Dự án 6 còn thúc đẩy mô hình “bảo tàng sống” tiếp cận bảo tồn di sản theo hướng linh hoạt và gần gũi. 5 mô hình bảo tàng sinh thái cộng đồng được xây dựng tại Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Bắc Giang và Kon Tum, nơi không gian sống, sản xuất, lễ hội và phong tục tập quán cùng hiện diện như một “dòng chảy văn hóa sống”.
Song song đó, 31 nhà văn hóa và khu thể thao thôn bản được cải tạo, hơn 150 tủ sách cộng đồng được trang bị tại 16 tỉnh miền núi. Nhiều đầu sách song ngữ, tài liệu văn hóa bản địa đã đến tay người dân, đặc biệt là giới trẻ, mở cánh cửa tri thức và khơi gợi niềm tự hào văn hóa từ trong gốc rễ.

Điểm nhấn nhân văn của Dự án 6 chính là việc tôn vinh nghệ nhân, những người thầm lặng gìn giữ và lan tỏa di sản văn hóa phi vật thể
Người dân là chủ thể – Di sản trở thành sinh kế
Con người luôn là “trụ cột sống” trong công cuộc gìn giữ văn hóa. Nhận thức rõ điều này, Dự án 6 đặc biệt chú trọng đến đào tạo, truyền dạy và tôn vinh những “báu vật sống” trong cộng đồng.
Trong 5 năm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức 40 lớp tập huấn chuyên đề, các địa phương tổ chức 347 lớp khác, thu hút hơn 16.000 lượt người tham gia, bao gồm nghệ nhân, học sinh, sinh viên, cán bộ văn hóa và người dân làm du lịch.
Điểm nhấn nhân văn của Dự án chính là việc tôn vinh nghệ nhân, những người thầm lặng gìn giữ và lan tỏa di sản văn hóa phi vật thể. Hàng trăm nghệ nhân được hỗ trợ để truyền dạy tại chỗ, hưởng chế độ đãi ngộ phù hợp, được phong tặng danh hiệu chính thức từ Nhà nước, khích lệ tinh thần và giữ gìn tri thức truyền đời.
Không chỉ dừng lại ở việc “bảo tồn để gìn giữ”, Dự án 6 đã chứng minh rằng văn hóa có thể trở thành nền tảng phát triển kinh tế, xã hội, nhất là ở những vùng khó khăn.

Qua 5 năm thực hiện, Dự án 6 thực sự đi vào lòng cuộc sống giúp cộng đồng các dân tộc nêu cao ý thức gìn giữ và lan tỏa di sản trong cộng đồng
Tại nhiều địa phương, sau khi triển khai các mô hình bảo tồn, đã hình thành các nhóm dịch vụ du lịch, tổ chức homestay, sản xuất và bán sản phẩm thủ công. Người dân tham gia trực tiếp vào chuỗi hoạt động, từ đón khách đến biểu diễn văn nghệ, nấu ăn, làm hướng dẫn viên. Nhờ vậy, hàng trăm hộ gia đình có thu nhập ổn định, giảm nghèo bền vững.
Ý thức gìn giữ di sản cũng ngày càng lan tỏa. Nhiều bạn trẻ quay về quê hương học nghề truyền thống, dạy múa dân gian, biểu diễn trống chiêng, làm du lịch cộng đồng, đóng vai trò như những “người gìn giữ mới” trong thế hệ hôm nay.
Đặc biệt, Dự án dành sự quan tâm sâu sắc đến các dân tộc thiểu số rất ít người như Cơ Lao, Mảng, Lô Lô, Bố Y, Giáy, Si La, Lự, Ơ Đu… bằng các chính sách hỗ trợ ưu tiên, phục dựng ngôn ngữ, phong tục đặc trưng, khẳng định nguyên tắc công bằng trong bảo tồn văn hóa.
Sau 5 năm triển khai, Dự án 6 không chỉ hoàn thành mục tiêu đã đề ra mà còn đặt nền móng bền vững cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Những bài học từ thực tiễn, từ cách tổ chức, vận động cộng đồng, cách “chuyển hóa” di sản thành sinh kế, đến việc ứng dụng công nghệ số trong bảo tồn, đều sẽ là hành trang quý báu cho chặng đường mới.
Khi văn hóa không còn là ký ức cũ mà trở thành động lực phát triển, khi người dân không còn là “đối tượng thụ hưởng” mà chính là chủ thể bảo tồn và lan tỏa di sản, đó là lúc Dự án 6 thực sự đi vào lòng cuộc sống như mạch nguồn ngầm chảy xuyên qua đại ngàn, nâng bước cộng đồng đến tương lai bền vững.
(Còn nữa)
Nguồn Văn hóa: http://baovanhoa.vn/dan-toc-ton-giao/bai-1-dau-an-5-nam-thuc-hien-du-an-6-144379.html