Bài 1: Quyết định lịch sử: Đường lối đổi mới ra đời
Từ một quốc gia bị bao vây cấm vận, với những thách thức lịch sử, khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta thấy rõ yêu cầu phải đổi mới như là một mệnh lệnh và đường lối đổi mới ra đời. Đó là quyết định lịch sử của Đảng, để đưa đất nước ta chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay.
Những thách thức lịch sử
Những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam đứng trước rất nhiều thách thức chưa từng có. Chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc chưa kết thúc; cuộc bao vây cấm vận của Mỹ là một thách thức khắc nghiệt, càng đẩy nền kinh tế nước ta vào tình thế vô cùng khó khăn.
Với đường lối đổi mới đúng đắn, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã đưa nước ta vượt qua thách thức, trở thành nước có thu nhập trung bình, đang bước vào giai đoạn phát triển mới với những dự đoán rất lạc quan của cộng đồng quốc tế. Nghị quyết số 43 của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 nêu rõ, lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Thời gian này ở nước ta, tư tưởng nôn nóng muốn tiến nhanh lên CNXH, dẫn đến việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cộng với những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho kinh tế - xã hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Nguồn lực viện trợ, giúp đỡ của các nước XHCN cạn đi, gần như không còn nữa.
Trong khi đó trên thế giới, trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hóa đang trở thành chiến lược của nhiều quốc gia phát triển. Nước ta lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận, hậu quả rất nặng nề, càng làm cho kinh tế, đời sống người dân ngày càng tụt hậu.
Cuối năm 1985 đầu năm 1986, nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do những khuyết điểm trong cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền (9/1985). Đất nước chìm sâu trong khủng hoảng kinh tế - xã hội, tình hình sản xuất trì trệ, các chỉ tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1981 - 1985) đều không đạt, nhiều lĩnh vực mức tăng trưởng là âm, lạm phát tăng phi mã có lúc lên đến 700%, đời sống của cán bộ, công chức và nhân dân vô cùng khó khăn, hơn 7 triệu người thiếu đói, dự trữ quốc gia đặc biệt là ngoại tệ cực thấp.
Ðảng và nhân dân ta thấy không còn sự lựa chọn nào khác là phải đổi mới, trước hết là đổi mới cách nghĩ, cách làm nhằm xây dựng CNXH một cách có hiệu quả hơn.
Trung ương Đảng và Bộ Chính trị thấy rõ thực tế này và quyết tâm tìm đường đi riêng của mình. Trong đó vai trò của đồng chí Nguyễn Văn Linh lúc ấy là Tổng Bí thư rất quan trọng. Cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền trước đó bộc lộ nhiều khuyết điểm khiến nền kinh tế xuống dốc, cả nước thiếu gạo ăn.
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đều nhận thấy đổi mới thì sống, không đổi mới thì chết. Nhưng đổi mới như thế nào để thắng lợi là những điều khiến các nhà lãnh đạo đất nước trăn trở.
Hình thành đường lối đổi mới
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khẳng định: "Không có con đường nào khác là phải kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế, phát huy vai trò của khoa học kỹ thuật, mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại".
Trước đó, tháng 6/1986, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Bí thư và được phân công Thường trực Ban Bí thư. Với sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Trường Chinh, Bộ Chính trị đã họp tháng 8/1986 và đi tới những kết luận quan trọng, nhấn mạnh đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và 3 chương trình kinh tế lớn. Từ đó hình thành đường lối đổi mới.
Với tư duy lý luận mới và quá trình khảo nghiệm thực tiễn, Tổng Bí thư Trường Chinh cùng với Thường trực Ban Bí thư Nguyễn Văn Linh và tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa V đã chỉ đạo chặt chẽ xây dựng các văn kiện trình Đại hội VI của Đảng. Đến Ðại hội VI (tháng 12/1986), Ðảng đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, trên cơ sở đó lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đạt nhiều thành tựu to lớn và quan trọng.
Vấn đề lớn nhất về mặt chính trị là giải quyết một cách tốt nhất cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc. Và chỉ trong vòng vài năm, chúng ta đã làm được bằng nỗ lực ngoại giao bền bỉ, cam go, để ổn định chính trị, phát triển kinh tế, bước vào công cuộc đổi mới.
Chính sách Đổi mới được chính thức thi hành từ Đại hội Đảng lần thứ VI, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, vào tháng 12/1986, với mục tiêu xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trên lĩnh vực kinh tế, đổi mới quan trọng trong nhận thức về mô hình kinh tế của thời kỳ quá độ, về quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế...
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, mà xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế XHCN, coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch, muốn nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. Đến Ðại hội VI, Ðảng ta đã tuyên bố dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước.
Cương lĩnh (năm 1991) khẳng định: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Ðại hội VIII đưa ra quan niệm mới, rất quan trọng: "Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng". Ðến Ðại hội IX, khái niệm "kinh tế thị trường" được chính thức nêu trong văn kiện Ðại hội, khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Ðó không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là kinh tế thị trường XHCN.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu.
Để thực hiện được những yêu cầu đó không đơn giản, vì nó rất mới mẻ, bởi thực tiễn chưa có, lý luận đang mò mẫm, nguồn lực thì hạn chế.
Để cải cách kinh tế phải làm luật. Từ năm 1987 đến tháng 6/2005, nước ta đã ban hành 145 luật, bộ luật, trong đó có 6 bộ luật lớn, 4 quy chế hoạt động của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đã thông qua và ban hành 149 pháp lệnh. Số bộ luật, luật tăng gấp ba lần so với thời kỳ trước đổi mới, góp phần tạo khung khổ pháp lý để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đặc biệt về kinh tế, sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài (năm 1987) đã tạo môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tiếp đó là Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999, tạo nền tảng cho kinh tế phát triển toàn diện.
Mở đường đến với thế giới và hội nhập
Về ngoại giao, việc đấu tranh để Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam (1994) và quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, bằng đường lối ngoại giao đúng đắn, độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn tốt, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, ổn định. Thành tựu ngoại giao cực kỳ quan trọng, giúp nước ta hội nhập sâu với thế giới, tận dụng nguồn lực để phát triển nhanh, bền vững.
Từ một nước bị bao vậy, cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 191/193 quốc gia và vùng lãnh thổ, thành viên Liên hợp quốc (LHQ). Trong đó, chúng ta có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, Đối tác chiến lược, Đối tác toàn diện với 30 nước trên thế giới bao gồm tất cả các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an, những nước quan trọng nhất trên thế giới như Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Trung Quốc hay các nước quan trọng khác trong khu vực là Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia...
Việt Nam đã mở đường ngoạn mục đến với thế giới, thu hút vốn ODA, đặc biệt trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xuất khẩu... và nhiều hoạt động kinh tế, chính trị xã hội được LHQ và bạn bè quốc tế đánh giá rất cao.
Qua 38 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao...
GDP tăng hơn 50 lần so với năm 1986
Sau 36 năm đổi mới, đến năm 2022, quy mô GDP Việt Nam đạt khoảng 406,45 tỷ USD, tăng khoảng 50 lần (GDP năm 2023 là 430 tỷ USD). Đặc biệt, giai đoạn 1986 - 2022, Việt Nam lọt top 5 nước có quy mô tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2022, Việt Nam đã vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, vừa xây dựng nền kinh tế tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả. GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2022 của Việt Nam tăng 8,02% so với năm trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022.