Bài 10: Năm bài học vẹn nguyên giá trị thời đại

Cách đây 90 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Từ thực tiễn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam để lại năm bài học kinh nghiệm quý báu và vẹn nguyên giá trị thời đại.

Một là: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Đây là bài học có tính nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, nhất quán trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. Bởi trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930) cũng như trong nhiều văn kiện của Đảng sau này, vấn đề độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ, liên tục và dứt khoát. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), nêu rõ: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”.

Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”. Khi nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như hạn chế, khuyết điểm, Đại hội XII (2016) đã rút ra một số bài học, trong đó tiếp tục nhấn mạnh bài học kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới.

Như vậy, con đường duy nhất đúng để đất nước phát triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự kiên định và sáng tạo của Đảng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Hai là: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng vĩ đại là ở nơi Đảng biết tìm thấy sức mạnh từ trong nhân dân, vì nhân dân mà làm việc, cống hiến”. Chính vì vậy, Người căn dặn: “Việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh”. Trong suốt 90 năm lãnh đạo cách mạng, dù trong bất luận hoàn cảnh nào, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn coi sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do đó, Đảng đã huy động được sức mạnh của toàn dân vào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ và nhân dân đã dành cho Đảng niềm tin yêu tuyệt đối.

Sở dĩ Đảng chiếm trọn lòng tin của nhân dân vì “ý Đảng” luôn hợp với “lòng dân”. Đảng đã giương cao ngọn cờ tranh đấu vì độc lập, tự do và hòa bình cho Tổ quốc, vì quyền sống và hạnh phúc cho nhân dân. Nhân dân tin yêu, đi theo Đảng bởi “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Chính niềm tin ấy đã mang lại sức mạnh to lớn cho những lời hiệu triệu của Đảng, mang lại hiệu quả thực tế từ những chủ trương, đường lối của Đảng trong suốt 90 năm qua. Điều này hoàn toàn đúng với khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khóa XII): “Cần khẳng định, ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.

Ba là: Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết

Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công. Chính nhờ sức mạnh đoàn kết trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Từ năm 1986 đến nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết nhằm tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết, tiêu biểu như Nghị quyết số 08B-NQ/HNTƯ, ngày 27-3-1990 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) “Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”; Nghị quyết 07-NQ/TƯ, ngày 17-11-1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”; Nghị quyết 23-NQ/TƯ, ngày 12-3-2003 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”... Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016) của Đảng khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...

Chính từ việc đề ra những chủ trương, đường lối nhằm không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua mọi gian lao thử thách, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước vững bước tiến lên.

Bốn là: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế

Trong cách mạng giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã phát huy tối đa sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời đại, kết hợp chúng một cách hiệu quả với sức mạnh dân tộc để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp nó với sức mạnh của thời đại, phát huy những lợi thế của đất nước, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đạt được thành tựu nổi bật.

Từ thực tiễn đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, rút ra những kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế”. Đây là bài học đặc biệt quan trọng, là vấn đề chiến lược, quyết định thành bại của sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

Trong tình hình hiện nay, hơn lúc nào hết, Đảng cần kế thừa thành tựu, kinh nghiệm lãnh đạo của giai đoạn trước đó; đồng thời bám sát yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ, lợi ích của quốc gia dân tộc và các xu thế vận động của thế giới đang đổi thay để bảo đảm cho Việt Nam có được sức mạnh tổng hợp to lớn nhất, vững bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Năm là: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Thực tiễn phong phú của cách mạng trong suốt 90 năm từ khi có Đảng là chứng minh hùng hồn cho luận điểm trên; làm nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, với sự tin cậy của nhân dân. Qua đó khẳng định chân lý, ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc. Biểu hiện rõ nét là từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua ngưỡng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đời sống nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao.

Với kết quả đạt được, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam là một quốc gia kinh tế - văn hóa phát triển, chính trị - xã hội ổn định, có nhiều triển vọng phát triển tốt; là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới, các thị trường lớn như tiền tệ, chứng khoán và bất động sản đều hoạt động ổn định, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng là dịp đặc biệt quan trọng để nhìn lại những thành tựu đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng là tổng kết những kinh nghiệm để vận dụng cho tương lai. Bởi trước bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực và trong nước luôn có những diễn biến phức tạp và khó lường, những bài học kinh nghiệm được đúc kết qua chín thập kỷ là những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần được vận dụng sáng tạo vào xây dựng, phát triển một nước Việt Nam hùng cường, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ mong đợi lúc sinh thời!

(Còn nữa)

Nguyễn Ngọc Toán

Nguồn Hà Nội Mới: http://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/chinh-tri/956564/bai-10-nam-bai-hoc-ven-nguyen-gia-tri-thoi-dai