Bài 15: Cơ chế huy động vốn cho điện hạt nhân: Đặt nền móng cho an ninh năng lượng

Trong bối cảnh Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng '0' (Net Zero) vào năm 2050, điện hạt nhân được coi là một trong những trụ cột chiến lược của an ninh năng lượng quốc gia.

Đây là nguồn điện nền sạch, ổn định, có khả năng vận hành liên tục không phụ thuộc vào điều kiện thời tiết như điện gió, điện mặt trời, đồng thời đạt hiệu suất cao với sản lượng lớn và tuổi thọ nhà máy kéo dài.

Việc phát triển điện hạt nhân không chỉ nhằm bổ sung nguồn cung mà còn giúp giảm phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu, cân bằng hệ thống điện trước những biến động của thị trường năng lượng toàn cầu. Tuy nhiên, để biến tầm nhìn thành hiện thực, một trong những thách thức không nhỏ là nguồn vốn và các cơ chế chính sách huy động vốn cho Dự án.

Một trong những thách thức không nhỏ để phát triển Điện hạt nhân là nguồn vốn và các cơ chế chính sách huy động vốn.

Một trong những thách thức không nhỏ để phát triển Điện hạt nhân là nguồn vốn và các cơ chế chính sách huy động vốn.

TS. Tô Văn Trường, chuyên gia độc lập về tài nguyên và môi trườn cho rằng khó khăn về tài chính không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình lựa chọn công nghệ mà còn tác động lâu dài đến xây dựng và vận hành nhà máy.

Điện hạt nhân là lĩnh vực đầu tư có quy mô vốn khổng lồ, vượt xa khả năng tự thân của nhiều quốc gia. Kinh phí không chỉ phục vụ giai đoạn xây dựng mà còn cho bảo trì, duy tu trong suốt vòng đời nhà máy, do đó, việc lựa chọn công nghệ luôn gắn chặt với khả năng huy động vốn. Trong bối cảnh này, uy tín và kinh nghiệm của các nhà đầu tư, nhà thầu quốc tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng.

Theo dự tính, một dự án điện hạt nhân công suất 1.000 MW có thể cần tới 5-8 tỷ USD đầu tư ban đầu, chưa kể chi phí vận hành, bảo dưỡng và nâng cấp trong suốt vòng đời 60-80 năm. Với quy mô khổng lồ như vậy, rất ít quốc gia có thể tự thu xếp toàn bộ nguồn vốn, đặc biệt là những nền kinh tế đang phát triển.

Cũng theo TS. Tô Văn Trường, việc lựa chọn công nghệ luôn gắn chặt với khả năng huy động vốn, bởi nhiều đối tác sẵn sàng cung cấp công nghệ nếu đi kèm gói tài chính ưu đãi, trong khi nếu không có nguồn lực vay vốn lớn, Việt Nam khó có thể tổ chức đấu thầu cạnh tranh giữa các quốc gia cung cấp.

Bên cạnh đó, vốn cho điện hạt nhân mang tính đặc thù: chu kỳ thu hồi kéo dài hàng chục năm, rủi ro cao, yêu cầu an toàn tuyệt đối và chịu sự giám sát khắt khe của cơ quan quản lý. Do đó, chi phí vốn thường cao hơn các dự án điện truyền thống. Chỉ riêng giai đoạn chuẩn bị và thẩm định đã tiêu tốn hàng trăm triệu USD, trong khi vốn vay thương mại chịu lãi suất cao và đòi hỏi bảo lãnh mạnh mẽ. Thực tế quốc tế cho thấy, phần lớn các dự án điện hạt nhân mới ở những quốc gia lần đầu triển khai đều dựa vào vốn vay ưu đãi từ nước xuất khẩu công nghệ, kết hợp bảo lãnh chính phủ và các quỹ hỗ trợ song phương.

Cũng theo chuyên gia này, để có thể giải quyết bài toán về vốn cho điện hạt nhân, Việt Nam nên mời các nhà thầu quốc tế có thế mạnh về điện hạt nhân nộp hồ sơ để tư vấn độc lập đánh giá. Tuy nhiên, thực tế nguồn vốn hạn chế có thể buộc chúng ta ưu tiên công nghệ từ những quốc gia sẵn sàng cho vay vốn kèm gói chuyển giao. Phần lớn các nước mới phát triển điện hạt nhân thường đàm phán song phương để nhận ưu đãi tài chính, vì vậy hình thức chỉ định thầu EPC trở nên phổ biến. Việc này đồng nghĩa lựa chọn nhà thầu EPC cũng chính là lựa chọn công nghệ, bởi mỗi quốc gia thường chỉ có một tổng thầu đại diện cho công nghệ hạt nhân của mình.

Ông nhấn mạnh, để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả, việc lựa chọn tư vấn quốc tế độc lập là thiết yếu, nhất là trong những dự án có yêu cầu an toàn và kỹ thuật đặc thù như điện hạt nhân. Tư vấn phải không có xung đột lợi ích với bất kỳ nhà thầu tiềm năng nào, đồng thời có trình độ và kinh nghiệm sâu với công nghệ dự kiến áp dụng.

Một đội ngũ tư vấn giỏi sẽ giúp chủ đầu tư và các bên liên quan có góc nhìn tổng thể, ra quyết định đúng đắn, tiết kiệm thời gian và chi phí. Với các gói thầu EPC, hồ sơ mời thầu cần được chuẩn bị chi tiết, đặt ra các mốc tiến độ và chế tài rõ ràng. “Không phải cứ EPC là khoán trắng cho nhà thầu, mà cần có tư vấn giám sát độc lập, nhân sự vừa giỏi nghề vừa có tâm sáng, thiếu một trong hai đều không ổn,” ông Trường nói.

Còn theo ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, để làm điện hạt nhân Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức trong huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách. Theo Viện Năng lượng, điện hạt nhân có một số hạn chế do chi phí đầu tư cao (khoảng 6.000 USD/kW) và bổ sung các yêu cầu về an toàn đối với rủi ro như sóng thần, khủng bố... đã làm vốn đầu tư của điện hạt nhân trở nên quá cao và rất khó giảm trong tương lai.

Một số chuyên gia kinh tế đề xuất thành lập Quỹ phát triển điện hạt nhân quốc gia, tạo nguồn vốn mồi từ ngân sách, vốn ODA và đóng góp của doanh nghiệp năng lượng; đồng thời có cơ chế bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay quốc tế để giảm chi phí lãi vay, ký hợp đồng mua bán điện dài hạn (PPA) được Nhà nước bảo đảm nhằm tạo dòng tiền ổn định cho nhà đầu tư. Chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu thiết bị, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong giai đoạn đầu vận hành cũng sẽ góp phần hấp dẫn các nhà đầu tư.

Ngoài ra, cần tính tới việc thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các dự án điện hạt nhân, cũng như cơ chế bảo hiểm rủi ro công nghệ và vận hành, trong đó Nhà nước có thể đồng chi trả. Áp dụng trần trách nhiệm tài chính cũng là một cách để hạn chế tác động của các tình huống bất khả kháng.

Có thể nói điện hạt nhân là nguồn điện nền vừa sạch vừa ổn định, đủ sức đáp ứng nhu cầu tăng trưởng trong 30-50 năm tới. Nếu chậm xây dựng cơ chế huy động vốn đặc thù, Việt Nam có thể bỏ lỡ cơ hội chiến lược và phải đối mặt với nguy cơ thiếu điện, phụ thuộc nhập khẩu năng lượng...

Minh Khang

Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/bai-15-co-che-huy-dong-von-cho-dien-hat-nhan-dat-nen-mong-cho-an-ninh-nang-luong-731328.html