Bài 2: Đồng hành cùng dân tộc trong chặng đường phát triển

Kể từ khi lá phiếu ngày 6/1/1946 mở ra nền dân chủ mới của nước Việt Nam độc lập, chặng đường 80 năm qua là hiện thân sinh động của mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Quốc hội với Nhân dân, giữa quyền lực Nhà nước với quyền làm chủ của người dân.

Trong từng giai đoạn lịch sử, từ kháng chiến đến kiến thiết hòa bình, từ công cuộc Đổi mới đến thời kỳ hội nhập quốc tế, Quốc hội luôn đồng hành, phản ánh và quyết định những vấn đề lớn lao của dân tộc. Nghị trường Quốc hội, bởi vậy, đã trở thành “Diên Hồng thời hiện đại”, nơi hội tụ ý chí toàn dân, nơi Nhân dân theo dõi và giám sát, nơi các quyết sách quan trọng vì dân, cho dân được hình thành.

Quốc hội trong kháng chiến: Ngọn cờ đoàn kết toàn dân

Ngay sau Tổng tuyển cử 1946, Quốc hội khóa I đã đặt nền móng thể chế cho Nhà nước dân chủ nhân dân. Quốc hội không chỉ ban hành Hiến pháp 1946 - bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ bậc nhất Đông Nam Á thời kỳ đó, mà còn có những hành động quyết liệt để đoàn kết, thống nhất dân tộc, chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng. Trong bối cảnh đất nước đối diện muôn vàn thử thách, Quốc hội đã trở thành trung tâm đoàn kết toàn dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Quang cảnh Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV ngày 20/10/2025. Ảnh TL

Quang cảnh Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV ngày 20/10/2025. Ảnh TL

Suốt giai đoạn kháng chiến, Quốc hội đã cùng với Nhân dân tiến hành sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, thực hiện cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, quyết liệt trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa... Để sự lãnh đạo và điều hành đất nước được tập trung thống nhất, Quốc hội đã giao quyền hạn tập trung vào Chính phủ. Ban Thường trực Quốc hội luôn cùng Chính phủ bàn bạc, tham gia ý kiến về các chủ trương, chính sách lớn và giám sát, phê bình Chính phủ về mọi công việc kháng chiến. Đây là nét rất đặc biệt của Quốc hội Việt Nam trong giai đoạn này - Quốc hội kháng chiến.

Sau chiến thắng 1954 ở miền Bắc và đặc biệt là sau ngày thống nhất đất nước 1975, Quốc hội bước vào giai đoạn mới, giai đoạn kiến thiết và quản lý đất nước trong hòa bình. Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 lần lượt ra đời, phản ánh yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, đồng thời thể chế hóa các nguyên tắc quản lý nhà nước phù hợp với bối cảnh.

Quốc hội thời bình: Thể chế hóa những quyết sách kiến thiết đất nước

Tuy nhiên, trong thực tiễn, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bộc lộ nhiều hạn chế. Đến Đại hội VI của Đảng (1986), công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng. Quốc hội, với chức năng lập pháp và quyết định những vấn đề hệ trọng của quốc gia, đã nhanh chóng thể chế hóa đường lối này.

Những đạo luật đầu tiên mở đường cho kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế như: Luật Đầu tư nước ngoài (1987), Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990), Luật Công ty (1990) ra đời trong bối cảnh ấy. Các luật này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho dòng vốn đầu tư nước ngoài, cho sự hình thành và phát triển khu vực kinh tế tư nhân, những động lực tăng trưởng mới của đất nước.

Trong các bài nói chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: “Chính phủ là đầy tớ của dân. Dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội cử ra Chính phủ, Chính phủ phải hết lòng phục vụ dân”. Câu nói giản dị mà sâu sắc này đã khẳng định nguyên tắc bất biến: mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.

Nhờ những quyết định táo bạo này, Việt Nam từng bước thoát khỏi khủng hoảng, tiến tới giai đoạn tăng trưởng cao liên tục trong những năm 1990. Điều này khẳng định vai trò đồng hành của Quốc hội: lắng nghe thực tiễn, thể chế hóa kịp thời đường lối Đổi mới, mở ra cơ hội phát triển cho Nhân dân.

Một dấu mốc đặc biệt trong quá trình phát triển của Quốc hội là việc công khai, trực tiếp các phiên chất vấn và thảo luận tại nghị trường từ cuối thập niên 1990, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc tăng cường tính minh bạch, dân chủ và hiệu quả giám sát. Từ đây, hàng triệu cử tri cả nước có thể theo dõi qua truyền hình, báo chí, để thấy rõ từng câu hỏi, từng câu trả lời của đại biểu và thành viên Chính phủ.

Tính công khai này biến nghị trường Quốc hội thành một “Diên Hồng hiện đại”, nơi tiếng nói Nhân dân được lắng nghe, nơi bộ máy hành pháp và tư pháp phải giải trình trước cử tri. Mỗi kỳ họp, đặc biệt là những phiên chất vấn, trở thành sự kiện chính trị xã hội thu hút sự quan tâm rộng rãi của toàn dân.

Chẳng hạn, tại các kỳ họp gần đây, những vấn đề nóng bỏng như quản lý đất đai, bảo vệ môi trường, phòng chống tham nhũng, cải cách giáo dục hay điều hành kinh tế vĩ mô đều được đưa ra mổ xẻ thẳng thắn. Các đại biểu nêu câu hỏi ngắn gọn, trực diện; các bộ trưởng, trưởng ngành trả lời công khai, có tranh luận hai chiều. Cử tri cả nước theo dõi sát sao, nhiều ý kiến xã hội lan tỏa ngay sau mỗi phiên họp, tạo sức ép buộc cơ quan quản lý phải điều chỉnh hành động.

Từ đó, “Chất lượng hoạt động giám sát tối cao, chất vấn và trả lời chất vấn ngày càng được nâng cao, thực sự trở thành diễn đàn dân chủ, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của cử tri”, như Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn gần đây khẳng định. Điều này thể hiện nghị trường không chỉ là nơi quyết sách, mà còn là kênh đối thoại xã hội có sức lan tỏa mạnh mẽ.

Chủ động đón đầu, hướng tới Quốc hội số

80 năm qua, Quốc hội đã ban hành hàng trăm đạo luật và nghị quyết, gắn liền với đời sống xã hội ở mọi lĩnh vực. Từ Luật Hôn nhân và Gia đình (1959) - khẳng định bình đẳng nam nữ, xóa bỏ hủ tục lạc hậu, đến Luật Bảo hiểm y tế, Luật Giáo dục, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Phòng chống tham nhũng…, tất cả đều nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân, đáp ứng những nhu cầu thiết thực trong cuộc sống.

Mỗi đạo luật, nghị quyết có dấu ấn mồ hôi, công sức, trí tuệ tập thể

Phát biểu tại cuộc gặp mặt các thế hệ đại biểu Quốc hội, Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá: “Trong mỗi đạo luật, mỗi nghị quyết có dấu ấn mồ hôi, công sức, trí tuệ tập thể của biết bao thế hệ đại biểu; là kết tinh của những chuyến đi cơ sở sống với nhân dân, thở với nhịp thở của nhân dân, những phiên thảo luận nhiều ngày, những câu chữ được cân nhắc kỹ càng để vừa đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, vừa đảm bảo tính khả thi, hiệu quả, tinh gọn, sáng rõ”.

Trong những giai đoạn khó khăn, biến động bất thường, Quốc hội cũng đã có những quyết định quan trọng, kịp thời. Giai đoạn 2020 - 2023, trước tác động nặng nề của đại dịch Covid-19, Quốc hội đã thông qua nhiều nghị quyết đặc thù, tạo cơ sở pháp lý để Chính phủ triển khai nhanh chóng các gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự đồng hành và chia sẻ của Quốc hội với Nhân dân trong những lúc nguy nan.

Từ lá phiếu lịch sử năm 1946 đến nghị trường công khai hôm nay, Quốc hội đã chứng minh sự gắn bó mật thiết với Nhân dân trong mọi chặng đường phát triển. Truyền thống ấy đang được tiếp nối bằng một bước chuyển mới: tiến vào kỷ nguyên số. Có thể thấy, Quốc hội không chỉ dừng lại ở việc phản ánh ý chí Nhân dân qua nghị trường công khai, mà còn chủ động đổi mới phương thức hoạt động để gần dân hơn, minh bạch hơn, hiệu quả hơn trong kỷ nguyên số. Trong kỷ nguyên số và hội nhập toàn cầu, tinh thần của lá phiếu 1946 vẫn là ánh sáng dẫn đường, nhắc nhở rằng: “Mọi quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.

Hoàng Yến

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/bai-2-dong-hanh-cung-dan-toc-trong-chang-duong-phat-trien-186060.html