Bài báo của bác sĩ 24 tuổi trúng tiến sĩ bị JCOPDF gỡ 'trùng nhiều dữ liệu' so với bài tiếng Việt
Bài báo bị JCOPDF gỡ có mức độ tương đồng cao và một số phần giống hệt với một bài báo đã được công bố trên Tạp chí Y học Việt Nam số tháng 1/2025.
Tạp chí Chronic Obstructive Pulmonary Diseases: Journal of the COPD Foundation (JCOPDF) đã gỡ bỏ (retracted) bài báo của nhóm tác giả Việt Nam, trong đó có tác giả Âu Nhật Huy. Huy là bác sĩ 24 tuổi trúng tuyển nghiên cứu sinh Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch gây xôn xao dư luận thời gian qua.
Bài báo có tên "Metabolic Dysfunction-Associated Fatty Liver Disease in Chronic Obstructive Pulmonary Disease Patients: Insights From Vietnam" (Tạm dịch: Bệnh gan nhiễm mỡ liên quan đến rối loạn chuyển hóa ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: Những phát hiện từ Việt Nam).
Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu tỷ lệ mắc, đặc điểm và ảnh hưởng của bệnh gan nhiễm mỡ liên quan chuyển hóa lên tần suất đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) tại Việt Nam.
Theo thông báo từ Tạp chí, bài báo này bị gỡ vì có mức độ tương đồng cao và một số phần giống hệt với một bài báo đã được công bố trên Tạp chí Y học Việt Nam số tháng 1/2025.
"Vào tháng 12/2024, tác giả Doan Le Minh Hanh đã thay mặt cho tất cả các tác giả được liệt kê ở trên, khẳng định trong quá trình nộp bản thảo cho JCOPDF rằng bản thảo chưa từng được xuất bản hoặc gửi tới bất kỳ nơi nào khác, bằng cách trả lời khẳng định câu hỏi: "Xác nhận rằng bản thảo này chỉ được gửi duy nhất cho tạp chí này và chưa được xuất bản, in ấn, hoặc gửi tới nơi khác".
Đến tháng 10/2025, Doan Le Minh Hanh đã thông báo cho JCOPDF về việc công bố trùng lặp. Do đó chúng tôi chính thức thu hồi bài báo này khỏi danh mục xuất bản", thông báo gỡ bài nêu lý do.
Đáng nói, bài báo tiếng Việt đăng tải trên Tạp chí Y học Việt Nam có 6 tác giả: Đoàn Lê Minh Hạnh, Trần Thị Khánh Tường, Lê Thượng Vũ, Lê Thị Thu Hương, Võ Hồng Minh Công, Nguyễn Hoàng Hải. Không có tên Âu Nhật Huy.
Tuy nhiên, khi xuất bản bài báo tiếng Anh, có thêm tên Âu Nhật Huy cùng với ba người khác, gồm Tran Thanh Du, Tran Le Doan Hanh và Doan Le Minh Thao. Bài báo này có 10 tác giả, bao gồm: Doan Le Minh Hanh, MD, MSc; Le Thuong Vu, PhD, MD; Tran Le Doan Hanh, MS; Tran Thanh Du, MD; Doan Le Minh Thao, MSc; Au Nhat Huy, MS; Le Thi Thu Huong, PhD, MD; Vo Hong Minh Cong, PhD, MD; Nguyen Hoang Hai, PhD, MD; Tran Thi Khanh Tuong, PhD, MD.
Đây là một trong những bài báo Âu Nhật Huy đứng tên chung với tác giả Tran Thi Khanh Tuong. Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ chuyên khoa II Trần Thị Khánh Tường - Trưởng Khoa Y, Trưởng Bộ môn Nội của Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch là mẹ của Nhật Huy.
Hai bài báo có mức độ trùng lặp như thế nào?
Trước đó, trên một số diễn đàn học thuật, bài báo trên bị cộng đồng khoa học đánh giá: "Hầu như toàn bộ nội dung bài này đã được công bố bằng tiếng Việt trước đó 6 tháng, vào ngày 28/1/2025 trên Tạp chí Y học Việt Nam. Bài báo tiếng Anh gần như là bản dịch bài báo tiếng Việt. Tất cả số liệu trong hai bài đều giống hệt nhau. Bất kỳ đoạn nào trong bài tiếng Việt đều có trong bài tiếng Anh". Để rõ hơn về vấn đề này, phóng viên tìm hiểu về 2 bài báo nêu trên.
Bài báo "Metabolic Dysfunction-Associated Fatty Liver Disease in Chronic Obstructive Pulmonary Disease Patients: Insights From Vietnam" đăng tải ngày 14/7/2025 trên JCOPDF.
Bài báo "Ảnh hưởng của bệnh gan nhiễm mỡ liên quan chuyển hóa (MAFLD) đến tần suất đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính" đăng tải ngày 28/1/2025 trên Tạp chí Y học Việt Nam.
Theo tìm hiểu, các nội dung trong đề mục Abstract (Tóm tắt) của hai bài này có câu chữ giống nhau khá nhiều. Tại phần Methods (phương pháp), nội dung mô tả cho thấy có sự trùng lặp đáng kể. Theo đó, ở cả hai bài báo này, nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên bệnh nhân COPD ổn định, sử dụng FibroScan để phát hiện gan nhiễm mỡ, áp dụng tiêu chuẩn APASL 2020 (Hiệp hội Nghiên cứu Gan Châu Á - Thái Bình Dương) để chẩn đoán MAFLD. Ngoài ra, Results (kết quả) cả hai bài báo đều được nêu tương tự nhau. Cụ thể:

Ảnh chụp màn hình.
Bên cạnh đó, cả hai bài báo này đều là nêu thiết kế nghiên cứu (study design) là nghiên cứu mô tả cắt ngang. Phần tiêu chuẩn chọn bệnh (inclusion criteria) đều là bệnh nhân COPD ổn định đã đến khám tại khoa Quản lý Hen-COPD tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, từ tháng 6 năm 2023 đến tháng 6 năm 2024 và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tại bài báo tiếng Anh, nhóm tác giả lý giải thêm về định nghĩa của bệnh nhân COPD ổn định.

Ảnh chụp màn hình.
Tiêu chí loại trừ (exclusion criteria) của hai bài báo nêu trên cũng y hệt nhau. Theo đó, bệnh nhân bị loại khỏi nghiên cứu nếu họ có bất kỳ tiêu chuẩn nào sau đây: (1) Không thể thực hiện FibroScan do có báng bụng hoặc BMI trên 30 kg/m2, (2) kết quả FibroScan không đáng tin cậy, được biểu thị bằng tỷ lệ giữa tứ phân vị và trung vị lớn hơn 30% hoặc tỷ lệ thành công dưới 60%, (3) có bằng chứng về ứ mật trong gan hoặc ngoài gan, hoặc tắc nghẽn gan do bệnh tim hoặc phổi, được xác định bằng siêu âm bụng trước khi thực hiện FibroScan, (4) Viêm gan cấp với nồng độ AST và ALT vượt quá 5 lần giới hạn bình thường trên (35U/L đối với nam, 25U/L đối với nữ), và (5) là phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú.
Ước lượng cỡ mẫu (sample size) đều được tính bằng công thức ước tính tỷ lệ mắc MAFLD ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính COPD, với tỷ lệ mắc từ nghiên cứu của Damien Viglino là 41,4%. Cỡ mẫu tối thiểu là 93 bệnh nhân.
Phần Phương pháp nghiên cứu (study methods) cả hai bài báo cũng y hệt nhau, đến từng chỉ số, phần trăm. Cụ thể:

Ảnh chụp màn hình.
Theo đó, ở cả hai bài đều nêu, máy FibroScan 530 được sử dụng để xác định tỷ lệ mắc và mức độ gan nhiễm mỡ, áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán MAFLD của Hiệp hội nghiên cứu gan Châu Á - Thái Bình Dương (APASL) năm 2020. MAFLD được chẩn đoán ở những bệnh nhân bị gan nhiễm mỡ trên FibroScan (mức độ nhiễm mỡ ≥5%) và đáp ứng một trong ba tiêu chuẩn. Bài báo trên JCOPDF không viết tắt các định nghĩa mà sẽ diễn giải cụ thể hơn bài báo ở Tạp chí Y học Việt Nam.
Ngoài ra, phần phân tích số liệu (data analysis) đều bằng SPSS 26.0. Tương tự như các phần trên, bài báo tiếng Anh sẽ diễn giải các định nghĩa, trong khi bài báo tiếng Việt có sử dụng thuật ngữ viết tắt.
Đạo đức trong nghiên cứu (ethics approval), cả hai bài đều nêu: Nghiên cứu đã được Hội đồng Đạo đức của Bệnh viện Nhân dân Gia Định phê duyệt theo quyết định số 79/NDGĐ-HĐĐĐ. Ở bài báo tiếng Anh có thêm: "Tất cả bệnh nhân đã được cung cấp bản đồng ý tham gia nghiên cứu bằng văn bản trước khi tham gia".

Ảnh chụp màn hình.
Trùng lặp đến từng dữ liệu
Đáng chú ý, ở phần bảng 1 Đặc điểm BPTNMT (bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính - PV) ở bệnh nhân có và không có MAFLD (COPD Characteristics in Patients With and Without Metabolic-Associated Fatty Liver Disease), ở bài báo trên JCOPDF có thêm 2 đặc điểm mà ở bài báo tiếng Việt không có, còn lại đa số các dữ liệu ở cả hai bài báo y hệt nhau.

Ảnh chụp màn hình.
Đáng nói, ở phần bảng 2 Đặc điểm kết quả FibroScan ở bệnh nhân BPTNMT có và không có MAFLD (Characteristics of FibroScan Results in COPD Patients With and Without Metabolic-Associated Fatty Liver Disease), các dữ liệu ở cả hai bài báo giống nhau hoàn toàn.

Ảnh chụp màn hình.
Hơn thế, phần nhận xét ở cả hai bảng nêu trên đều giống nhau:

Ảnh chụp màn hình.
Tương tự, bảng 3 Tương quan giữa Điểm CAP và một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng (Correlation Between Controlled Attenuation Parameter Score and Some Clinical and Paraclinical Features) cũng có các chỉ số dữ liệu giống hệt nhau.

Ảnh chụp màn hình.
Ở bảng 4, Phân tích hồi quy logistic cho các đợt cấp thường xuyên ( Logistic Regression Analysis for Frequent Exacerbations) các dữ liệu cũng có mức độ trùng lặp cao.

Ảnh chụp màn hình.
Ở phần nhận xét bảng 4 cũng giống hệt nhau. Theo đó, bài báo tiếng Việt nêu; Các yếu tố tăng nguy cơ đợt cấp BPTNMT gồm mMRC cao (OR: 7,51), CAT cao (OR: 1,22), FEV1 thấp (OR: 0,96), BMI cao (OR: 1,25), CAP >289 dB/m (OR: 5,64), MAFLD (OR: 1,99), và HbA1c cao (OR: 2,91), tất cả có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Hồi quy logistic đa biến xác định mMRC cao (OR: 9,48, p=0,001), MAFLD (OR: 3,64, p=0,014), HbA1c cao (OR: 2,15, p=0,030) và CAP > 289 dB/m (OR: 6,60, p=0,002) là các yếu tố nguy cơ độc lập của đợt cấp thường xuyên (≥ 2 lần/năm).

Ảnh chụp màn hình.
Bài báo tiếng Anh nêu: Risk factors for frequent COPD exacerbations include a high mMRC score (odds ratio [OR]: 7.51), a high CAT score (OR: 1.22), low FEV1 (OR: 0.96), a high BMI (OR: 1.25), CAP >289dB/m (OR: 5.64), MAFLD (OR: 1.99), and elevated HbA1c (OR: 2.91), all statistically significant (p<0.05). Multivariable logistic regression identified a high mMRC score (OR: 9.48, p=0.001), MAFLD (OR: 3.64, p=0.014), elevated HbA1c (OR: 2.15, p=0.030), and a CAP >289dB/m (OR: 6.60, p=0.002) as independent risk factors for frequent exacerbations (≥2 times/year).
Ngoài ra, ở hình 1, đường cong ROC liên quan giữa đợt cấp thường xuyên trong năm trước và CAP cũng giống hệt nhau:

Ảnh chụp màn hình.
Ở nội dung tỷ lệ mắc MAFLD, cả hai bài báo cũng gần như giống nhau.

Ảnh chụp màn hình.
Đáng chú ý, tại phần kết luận (conclusion) của hai bài báo cũng giống nhau. Cụ thể, bài báo tiếng Việt nêu: Tỷ lệ mắc bệnh gan nhiễm mỡ liên quan chuyển hóa (MAFLD) cao ở bệnh nhân BPTNMT (48,8%). MAFLD có liên quan đến chức năng phổi kém hơn và tăng tần suất các đợt cấp COPD. Điểm CAP tăng cao (>289 dB/m) được phát hiện là yếu tố dự báo mạnh về các đợt cấp thường xuyên. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng MAFLD là một yếu tố độc lập làm tăng nguy cơ các đợt cấp ở bệnh nhân BPTNMT. Điều này khuyến cáo hướng quản lý đồng thời các bệnh chuyển hóa và hô hấp.
Trong khi đó, bài báo tiếng Anh cũng kết luận: Our study demonstrates a high prevalence of MAFLD in COPD patients (48.8%). MAFLD is associated with worse lung function and an increased frequency of exacerbations of COPD. Elevated CAP scores (>289dB/m) were found to be a strong predictor of frequent exacerbations. The study also shows that MAFLD is an independent factor that increases the risk of exacerbations in COPD patients, further highlighting the connection between liver fat accumulation and respiratory outcomes.

Ảnh chụp màn hình.
Hồi tháng 8/2025, Âu Nhật Huy tốt nghiệp ngành y sau 6 năm theo học tại Trường Đại học Tân Tạo. Chưa đầy hai tháng sau, Huy trúng tuyển chương trình đào tạo tiến sĩ ngành Nội khoa tại Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch với điểm số 88,80 sau đó bị hạ xuống còn 88,3 điểm.
Với kết quả này, Huy trở thành Á khoa thi tuyển đầu vào nghiên cứu sinh Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
Tuy nhiên, dư luận đã đặt ra nhiều băn khoăn liên quan đến kết quả trúng tuyển của thí sinh này. Trong đó, phần lớn các ý kiến nêu ra rằng, kết quả trúng tuyển của nghiên cứu sinh này có khách quan hay không, khi Huy đứng tên chung với mẹ của mình 7/9 bài báo khoa học.
Theo quy định, người học thẳng lên tiến sĩ phải có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, thể hiện qua các bài báo hoặc báo cáo đã công bố. Theo thống kê Âu Nhật Huy có tên trong ít nhất 9 bài, gồm 3 bài báo quốc tế và 6 bài trên các tạp chí trong nước.










