Bài cuối: Đoạn khúc cuối cho Đà Lạt
Bảy năm sau, tôi mới có dịp quay trở lại Đà Lạt lần thứ hai. Lần này, tôi dẫn đoàn sinh viên đi thực tế. Sau khi thu xếp công việc của đoàn, tôi tranh thủ đến khu vực gần ga để tìm Huyền My, người con gái đã để lại cho tôi những ấn tượng không thể xóa mờ trong suốt ngần ấy năm. Nhưng khi tôi đến nơi thì hỡi ôi, căn nhà của Huyền My đã không còn, thay vào đó là 1 quán ăn khá đông thực khách.
Người chủ mới bảo rằng ba của Huyền My bán căn nhà này từ 4 năm trước, nghe đâu gia đình dọn về sống ở Đức Trọng hay Bảo Lộc gì đấy. Cũng phải thôi, vì khu vực này bây giờ đã quá ồn ã. Những đoàn du khách kéo qua con dốc như những dòng thác. Âm thanh của động cơ xe máy, của những tiếng còi dài đã làm vỡ đi giấc mộng Đà Lạt êm đềm, nên gia đình Huyền My đành tìm nơi khác, để sống cùng nỗi cô độc an yên.
Tôi cố đi tìm lữ quán năm nào, giờ cũng không còn nữa, trên nền cũ người ta chuẩn bị xây 1 homestay. Con đường vắng tênh ngày nào giờ đây cửa nhà san sát. Ôi, bao nhiêu thứ đã được xây cất thêm trong những năm qua có ngờ đâu lại làm sụp đổ trong tôi những tượng đài đẹp đẽ về 1 Đà Lạt thiên đường. Có lẽ, những ngày cũ như một giấc Nam Kha, dù đẹp mấy thì vẫn là hư ảo.
Sau này, tôi có dịp trở lại Đà Lạt thường xuyên hơn. Tôi đã xem Đà Lạt như một phần của đời mình, như một người tình đầy say đắm. Dĩ nhiên, khi đã yêu thì vừa có hạnh phúc vừa có hờn ghen. Mỗi lần trở lại Đà Lạt, trái tim tôi lại phập phồng. Tôi khẽ chạm vào cái lạnh buốt đêm sương, lặng ngắm mặt hồ Xuân Hương phảng phất mây mù, ngất ngây như chìm vào một nụ hôn bất tận. Tôi thích ngồi hàng giờ trên thềm cỏ dưới những rặng thông, để lắng nghe tiếng thở của cây của đất, lắng nghe tim mình cuộn chảy nguồn năng lượng trẻ.
Nhà lưới đầy thung lũng- Ảnh: Chí Hùng
Thế nhưng, tôi không ít lần xót xa nhìn cảnh phố xá ken dày những con đường xanh mượt mà của thuở trước. Đau đáu nhìn những dòng người thi nhau đẩy nỗi trầm lắng lùi xa. Sứ mệnh của Đà Lạt ngay từ ban đầu không hẳn là để làm 1 khu thị tứ bán mua sầm uất, nó là nơi dành cho những kỳ nghỉ dưỡng, là chốn để yêu đương. Bởi vậy, việc băm vằm Đà Lạt một cách bất chấp để xây cất, để kinh doanh như hiện nay dễ khiến ta liên tưởng đến một vụ xâm hại của một tên đồ tể với cô gái trẻ.
Khi người Pháp đặt chân đến và tiến hành đánh thức Đà Lạt, họ không ngại đuổi những tộc người bản địa lùi xa trung tâm. Họ muốn quy hoạch một Đà Lạt sang trọng quý phái, và sự hiện hữu của những làng bản người Lạch, người Chill, người Srê làm bức tranh Đà Lạt thành quê mùa. Các tộc người bản địa phải rút sâu vào rừng hoặc đến hạ nguồn dòng suối mà định cư, tránh vấy bẩn cảnh quan, ô nhiễm nguồn nước.
Đến khi Đà Lạt thành hình, kiêu hãnh như 1 “tiểu Paris” giữa đại ngàn, những người Việt cấp tiến bắt đầu đến chiêm ngưỡng, thậm chí chọn cách gắn bó cuộc đời mình với xứ sở mộng mơ này. Ngày người Pháp rời khỏi Đông Dương, Đà Lạt bấy giờ mới hoàn toàn thuộc về người Việt. Phần lớn người Việt bén duyên từ ban đầu với Đà Lạt là vì họ say đắm vẻ đẹp của cảnh sắc, sự thanh khiết của khí hậu ôn hòa dịu mát nơi đây.
Còn một lý do nữa mà bao lớp người đến đây đều thừa nhận, là Đà Lạt cho ta một cõi thinh lặng trong tâm hồn. Có 1 nữ tiến sĩ ở Sài Gòn đã không ngại dùng hết số tiền cô dành dụm được trong sự nghiệp giảng dạy ở trường đại học chỉ để mua 1 ngôi nhà nhỏ trên triền dốc ngoại ô Đà Lạt. Khi về hưu, cô cùng người bạn đời của mình đã sống những ngày tháng tuyệt đẹp nơi đây, nơi mà cô bảo rằng suốt ngày được đắm chìm trong hương sắc của cỏ hoa.
Tôi đã đến nhà cô vào một buổi chiều muộn, ngồi bên mấy khóm hoa rực rỡ ngoài hiên ngắm nhìn thung lũng đang bị làm đầy bằng những khối sương mù khổng lồ. Cô kể hàng đêm, vợ chồng cô hay ra ngồi nơi đó, chồng cô đàn guitar và cô hát. Họ say đắm cùng âm nhạc, say đắm cùng Đà Lạt và say đắm vào nhau. Thoáng chốc tôi bỗng nghĩ, nếu vẽ 1 bức tranh về thiên đường thì chắc chỉ đẹp đến dường ấy là cùng.
Đà Lạt đang bị băm từng ngày- Ảnh: Chí Hùng
Tiếc là, những dòng người cứ đổ xô lên Đà Lạt, mỗi năm một nhiều hơn. Những lớp người mới này đa số không phải vì tình yêu dành cho Đà Lạt mà đến như vợ chồng cô tiến sĩ tôi vừa kể. Họ chỉ đến vì Đà Lạt có thể khiến họ hái ra tiền. Chính cái tư duy kiểu con buôn ấy khiến cho Đà Lạt bị tổn thương, và những ai yêu quý Đà Lạt cũng tổn thương.
Đà Lạt đang trong trạng thái lưỡng phân giữa việc gìn giữ các giá trị cao quý và đầu tư thực dụng để kiếm tiền. Viễn cảnh thế nào thì chắc ta cũng có thể hình dung. Có lần, chỉ trong 1 ngày ở Đà Lạt, tôi đã chứng kiến 2 cảnh tượng đối lập. Buổi sáng, đang đi bộ thể dục trên đường Hùng Vương, tôi thấy 1 bà lão đi phía trước bỗng dừng lại ngắm nhìn một thứ gì đó dưới đất, rồi bà đi vòng xuống lòng đường, sau đó trở lại vỉa hè đi tiếp. Tò mò, tôi đi nhanh đến xem có vật gì mà khiến bà ngại bước qua.
Đến nơi tôi mới chưng hửng. Thì ra cây phượng tím ven đường rụng xuống một thảm hoa, bà lão ấy không nỡ giẫm lên những xác hoa nên đi vòng ra phía ngoài để tránh. Chỉ một hành động đó thôi đã khiến tôi cảm phục vô biên cái cách mà người dân Đà Lạt đối xử với thiên nhiên. Tôi từng nghe nói cây phượng tím được 1 người kỹ sư canh nông gốc An Giang là Lương Văn Sáu mang về từ Pháp, đem trồng trên Đà Lạt từ năm 1962. Ngoài phượng tím, ông còn mang đến Đà Lạt nhiều kỳ hoa dị thảo khác như vông kê đỏ, cẩm cù, kim giao, chuông vàng...
Ông Sáu không nói được do bệnh hạch thanh quản, và mọi ngôn từ ông gởi hết vào các loài hoa. Điều đó càng khiến ta có cơ sở để khẳng định cỏ hoa cũng có tiếng nói, cũng có linh hồn. Bởi thế, cái hành động đơn sơ của bà lão người Đà Lạt khiến lòng tôi rộn vui khôn tả xiết. Cho đến chiều, tôi bần thần rất lâu khi bắt gặp 1 cô gái đẹp ăn mặc tân thời đi với tình nhân đã ném mấy chai nhựa xuống hồ Xuân Hương dù thùng rác cách chỗ cô đứng không xa. Tôi không thể tả nổi cảm xúc khi chứng kiến cảnh tượng đó. Nó là một cái tát trực diện vào cảnh quan, là 1 chiếc kim đâm vào tim những ai yêu Đà Lạt.
Xi măng, cốt thép phá dần Đà Lạt- Ảnh: Chí Hùng
Có lẽ, không ít người gốc Đà Lạt đã từng nén những tiếng thở dài khi nhìn cái thành phố mình yêu thương bị làm vấy bẩn. Rồi cũng không ít người trong số đó đã chọn cách rời đi. Rời đi không phải họ hết yêu Đà Lạt, mà là họ không chịu nổi cảm giác chứng kiến bao điều trân quý dần dần biến mất.
Tôi lại nghĩ đến gia đình của Huyền My. Biết đâu bố cô rời đi chỉ vì muốn có một không gian yên ắng đọc vài trang sách, uống mấy tách trà. Biết đâu cô rời đi vì muốn tiếng đàn được tự do bay vút trong thinh lặng. Biết đâu họ rời đi vì không thể chứng kiến sự giày vò bởi cái hồn cốt của Đà Lạt đang mất dần, mất dần.
Chiều nay đi dạo quanh bờ hồ, tôi thấy một cảnh tượng khá hi hữu. Có một nhóm người đầu đội khăn tang, quỳ gối bên bờ hồ cầu nguyện. Sau đó, họ lấy các hũ tro cốt rắc xuống mặt hồ cho dòng nước cuốn trôi. Tôi bỗng nhớ đến lần tôi đi sâu trong hẻm Hoàng Hoa Thám, bỗng bắt gặp nghĩa trang Trại Hầm. Hàng ngàn ngôi mộ nằm chen chúc nhau trên đồi thông. Có hưởng thọ có hưởng dương. Có Thiên chúa có Tin lành có Phật. Tất cả im phăng phắc. Trầm mặc.
Tôi cũng lặng yên ở nơi ấy hàng giờ để ngẫm về nỗi nhân sinh. Ôi kiếp phù vân như những nhánh thông mục dưới chân đồi, như chút tro bụi tan biến vào hư ảo. Hơn một trăm năm qua, Đà Lạt đã chứng kiến bao người đi kẻ ở, đã ươm nở biết bao tình yêu cao đẹp và xoa dịu bao nhiêu nỗi thăng trầm? Chúng ta không thể nào biết được, Đà Lạt bằng tất cả sự rộng lượng đã dung chứa hết những gì mà cuộc đời đem đến. Đà Lạt vẫn luôn dịu dàng dù mỗi ngày người ta chạm khắc lên đó quá nhiều nỗi đắng cay. Có lẽ đó là điều khiến ai cũng yêu Đà Lạt.
Đà Lạt, tháng 6.2020