Bài học cho những kẻ ảo tưởng

Sau 50 năm Bắc-Nam sum họp một nhà, Tổ quốc thống nhất và nền hòa bình cùng sự ổn định chính trị đã đưa Việt Nam đến vị thế mới rất vững chắc trong thế giới hiện đại đầy biến động.

Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bên cạnh bản hùng ca chiến thắng ngân vang, bài học về tinh thần độc lập, tự chủ lại hiện về, nóng hổi và đầy ắp tính thời sự trong thế giới phẳng hôm nay.

Lâu nay, nền độc lập, tự chủ và tự do vững chắc mà Việt Nam xây bằng máu xương bao thế hệ vốn là niềm mong ước, khát vọng của nhiều dân tộc trên thế giới đang luẩn quẩn ở vũng lầy xung đột và chiến tranh lại bị một số kẻ phê phán, “tạt a xít”. Chúng không chấp nhận sự thật: Việt Nam ổn định, phát triển cường thịnh.

Minh họa: Hải Lâm

Minh họa: Hải Lâm

Bất chấp con đường hợp đạo lý, hợp lòng người, hợp xu thế thời đại và tương lai tươi sáng đang rộng mở của dân tộc, chúng định hướng, lôi kéo những kẻ bất mãn, phản động đòi phá bỏ những thành tựu ấy để xây dựng một thể chế chính trị mới với cái gọi là “tự do” và “dân chủ” tuyệt đối mà chúng hằng tôn thờ. Hình như bài học lịch sử chưa đủ mạnh để chúng tỉnh ngộ, bớt ảo tưởng.

***

Đầu năm 1975, sau khi Phước Long thất thủ, cho dù “mũi dao bén ngọt” của Quân giải phóng đã chọc vào cạnh sườn nhưng Nguyễn Văn Thiệu vẫn luôn lạc quan với lời hứa chắc như đinh đóng cột từ năm 1973 của Tổng thống Nixon: “Nếu Bắc Việt vi phạm, Mỹ sẽ đáp trả”. Viễn cảnh mà Thiệu mơ tưởng là quan thầy Mỹ sẽ đưa quân và chi viện hỏa lực đường không, đường biển hoặc chí ít là viện trợ ngân sách hơn 2,1 tỷ USD để Thiệu có thể giữ vững cái gọi là nền cộng hòa vốn cho Thiệu và gia đình cùng đội ngũ tướng lĩnh những “hoa thơm trái ngọt” béo bở.

Theo những tài liệu đã được Nhà trắng giải mã những năm gần đây, sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ, Thiệu đã đưa ra một quyết định mà không tham vấn bất cứ nhân vật hoặc cơ quan nào của quan thầy Mỹ: Bỏ Cao nguyên Trung phần về giữ các tỉnh ven biển miền Trung từ Huế trở vào Nam. Bởi Thiệu luôn tin và nuôi ảo tưởng, dù viện trợ quân sự bị cắt giảm nghiêm trọng xuống còn hơn 700 triệu USD thì Thiệu vẫn đủ lực để giữ những phần đất "ngon" nhất. Thiệu tin, với đội quân trung thành, hùng mạnh trong tay vẫn có thể giữ được những vùng quan trọng để “chờ cơ hội”.

Nhưng trời không chiều lòng Thiệu, đội hình rút lui trên Đường 7B của ngụy đã bị Quân giải phóng truy kích. Từ đây, thời cơ có lợi cho quân ta xuất hiện rõ như ban ngày, còn lực lượng mang những cái tên mỹ miều như biệt động quân, thủy quân lục chiến, biệt động dù... vốn rất thiện chiến của Thiệu và từng được quan thầy Mỹ huấn luyện công phu, được trang bị đến tận răng đã trở thành những chú hề, thành thỏ đế trước sức mạnh vũ bão của Quân giải phóng. Hiệu ứng đô-mi-nô đã đẩy quân ngụy vào cảnh “cá nằm trên thớt”, khiến niềm tự hào với "thế giới tự do" lâu nay Mỹ từng huênh hoang bị sụp đổ nhanh chóng không hồi cứu vãn. Những bộ quân phục, những khẩu súng rồi xe tăng, trực thăng vũ trang... vốn là biểu trưng cho sự giàu có và sức mạnh của tự do bị bỏ lại phi trường, bến cảng và trên xa lộ đã chứng minh điều đó.

Nửa đầu tháng 4-1975, khi Quân giải phóng vượt qua phòng tuyến Phan Rang, áp sát phòng tuyến tử thủ thép Xuân Lộc, cho dù những “mũi dao thép” đã lởn vởn ngay sát nách đô thành Sài Gòn thì Thiệu vẫn ngoan cố kêu gào binh sĩ tử thủ và đọc diễn văn phủ dụ dân chúng tin vào chính phủ và đội quân mà Thiệu cố công xây dựng.

Cạnh đó, với niềm tin mãnh liệt vào đồng minh nước lớn thân cận và thói sĩ diện hão, Thiệu ra sức điện đàn với quan chức Nhà trắng để tìm sự hỗ trợ. Nhưng dù khản cổ kêu gào thì Thiệu vẫn chỉ nhận được ở quan thầy những cái lắc đầu và kế hoạch di tản trong bí mật. Thiệu ngoan cố bám dinh Độc Lập, bám chặt chiếc ghế tổng thống cho dù bị tướng nguyền, dân oán và đồng minh rời bỏ. Từ các vùng chiến sự, sĩ quan của Thiệu gọi về với những lời chua chát: “Tổng thống ra lệnh nhưng không ra mặt. Lính chết, bỏ chạy, còn ông thì... chờ viện trợ”.

Sau khi Quân giải phóng làm chủ nhiều đô thị, vùng giải phóng mở rộng, diện tích của ngụy ngày càng thu hẹp, sau năm lần bảy lượt bị quan thầy Mỹ khuyên nhủ, dụ ép, đe dọa và đánh tiếng cảnh báo sẽ có cuộc đảo chính như năm 1963 nếu không nhường ghế, cuối cùng, Thiệu chấp nhận buông bỏ quyền lực bằng một bài diễn văn hôm 21-4-1975 với lời chua chát, uất hận rằng: “Hoa Kỳ đã phản bội chúng ta...”. Và trong đêm tối ở phi trường Tân Sơn Nhất, Thiệu ra đi không kèn, không trống với nỗi lo mất mạng thường trực. Thiệu được Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) cho di tản bằng lý do sang Đài Loan viếng Tưởng Giới Thạch.

Cùng thời điểm đó, từ các thông tin tình báo và những bộ óc phân tích chiến lược toàn diện sắc bén, khi chắc chắn “Hoa Kỳ không có khả năng trở lại”, với tinh thần chủ động, Đảng ta đã nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trên chiến trường, quân ta càng đánh càng mạnh và đã giành những thắng lợi liên tiếp. Chiến dịch Hồ Chí Minh mở ra quá nhanh chóng khiến quan thầy Mỹ phải cay đắng chấp nhận thực hiện chiến dịch “gió lốc”, di tản khỏi miền Nam Việt Nam.

Trưa 30-4-1975, khi màu áo “sắc xanh núi rừng” tràn ngập dinh Độc Lập, khi cờ đỏ sao vàng và cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay, đặc biệt sau lời đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh trên Đài phát thanh Sài Gòn, “thế giới tự do” giả hiệu sụp đổ hoàn toàn. Lúc này, vai trò “con tốt” của ngụy quyền Sài Gòn trên bàn cờ địa chính trị do quan thầy Mỹ dựng lên chính thức ra đi.

Bài học từ sự sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn không chỉ là sự thất bại của một bộ máy sống nhờ, tồn tại bằng ngoại lực mà còn là minh chứng sống động cho chân lý: Chỉ có độc lập dân tộc, tự chủ về chính trị và tinh thần đoàn kết toàn dân mới tạo nên sức mạnh trường tồn. Trong bối cảnh thế giới hiện đại đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn địa chính trị, cạnh tranh chiến lược và những cuộc xung đột, Việt Nam-một quốc gia nhỏ vẫn giữ vững hòa bình, ổn định và phát triển là nhờ bài học lịch sử ấy.

Thế nên, việc những kẻ ảo tưởng vào một "thiên đường tự do" viển vông do ngoại bang vẽ ra, tiếp tục cổ xúy, lôi kéo phá vỡ trật tự hiện tại cần nhìn lại số phận của những kẻ đi trước và hãy nhớ rằng: Những “tướng không quân, lính không trận” lưu vong và trái tim rách nát cùng vết thương quá khứ thì sao có thể mang gánh được ước vọng xa xôi. Hãy tỉnh táo mà nhận thức đầy đủ rằng, tự do và dân chủ không bao giờ đến từ những khẩu hiệu trống rỗng, càng không thể được ban phát từ ngoại bang. Nó phải là kết quả của một quá trình đấu tranh tự lực, từ nhân dân, vì nhân dân.

Ngày nay, khi thế giới tiếp tục chứng kiến những cuộc xung đột, chiến tranh ở nhiều khu vực, sự phụ thuộc chính trị, kinh tế khiến nhiều quốc gia nhỏ bị cuốn vào vòng xoáy bất ổn, thì bài học về tự chủ của Việt Nam càng trở nên quý giá.

Giữa lúc thế giới vẫn còn những mô hình “dân chủ xuất khẩu” đầy rối ren, sự vững vàng của Việt Nam chính là minh chứng cho một con đường độc lập-vì dân, từ dân và do dân-không thể bị thay thế bởi bất kỳ ảo tưởng nào đến từ bên ngoài.

Từ chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã chứng minh, lịch sử không dành chỗ cho những ảo tưởng chính trị lạc lõng. Nó chỉ ghi nhớ và tôn vinh những dân tộc dám tự mình viết nên vận mệnh của chính mình mà thôi. Hãy đừng quên bài học ấy!

MẠNH THẮNG

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/phong-chong-dien-bien-hoa-binh/bai-hoc-cho-nhung-ke-ao-tuong-826040