'Bài toán' Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Châu Âu
Trong những năm gần đây, một số quốc gia châu Âu ngày càng chuyển sự chú ý sang khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Phản ánh sự nhấn mạnh ngày càng tăng này, số lượng các văn kiện chiến lược về khu vực được các nước châu Âu ban hành đã tăng vọt.
Pháp là quốc gia châu Âu đầu tiên thông qua chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vào năm 2019, tiếp theo là các nước bao gồm Ireland, Hà Lan, Vương quốc Anh, Đức, Cộng hòa Czech và gần đây nhất là Lithuana. Năm 2021, Liên minh châu Âu (EU) cũng đã công bố chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của riêng mình.
Tầm quan trọng
Từ năm 2011 đến 2022, kim ngạch nhập khẩu từ Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vào EU đã tăng 117%, trong khi xuất khẩu tăng 59%. Năm 2022, tổng thương mại hàng hóa giữa EU và các nền kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đạt 1.765 tỷ euro, gấp đôi khối lượng thương mại của EU với Mỹ, đối tác thương mại đơn lẻ hàng đầu của khối.

Khinh hạm Beyern của Hải quân Đức thực hiện chuyến hải trình qua Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương chiếm 37% tổng kim ngạch nhập khẩu của EU và 1/4 kim ngạch xuất khẩu. Đối với Vương quốc Anh, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương chiếm khoảng 18% tổng thương mại. Hơn nữa, khu vực này tạo ra 60% GDP toàn cầu và đóng góp 2/3 tăng trưởng kinh tế toàn cầu, điều này đã khẳng định tầm quan trọng kinh tế sống còn của nó đối với châu Âu.
Đồng thời, các quốc gia châu Âu ngày càng cảnh giác với môi trường an ninh bất ổn của khu vực này. Bởi, nó có vẻ như là sân khấu chính cho cuộc cạnh tranh nước lớn đang diễn ra giữa Trung Quốc và Mỹ. Khi sự tranh giành trên các vùng biển phát triển những thành những thách thức đối với luật pháp quốc tế và những hạn chế về tự do hàng hải, những diễn biến này cũng đe dọa làm xói mòn trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Các quốc gia châu Âu có lợi ích trực tiếp trong việc bảo tồn trật tự này, vì nó bảo vệ họ khỏi sự ép buộc từ bên ngoài và cũng có khả năng của họ trong việc thúc đẩy các lợi ích kinh tế và chiến lược trên toàn cầu.
Hơn nữa, trong khi Mỹ ngày càng chuyển sự tập trung chiến lược của mình từ châu Âu sang Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và cuộc cạnh tranh với Trung Quốc, kiến trúc an ninh châu Âu vẫn phụ thuộc nhiều vào sự can dự của Mỹ. Nếu Washington bị lôi kéo vào một cuộc xung đột lớn ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, khả năng (và có thể cả ý chí) của họ trong việc bảo vệ châu Âu có thể bị suy giảm đáng kể. Những lo ngại này đặc biệt cấp bách trong bối cảnh mối đe dọa dai dẳng vẫn chưa thể chấm dứt.
Cuộc chiến ở Ukraine càng cho thấy sự liên kết giữa diễn biến ở các chiến trường châu Âu với các khu vực khác. Một số bên tham gia đã tích cực đóng góp vào nỗ lực chiến tranh, và đến từ các châu lục khác với châu Âu. Những diễn biến này nhấn mạnh rằng lợi ích kinh tế và an ninh của châu Âu có mối liên hệ sâu sắc với các sự kiện ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Tăng cường hiện diện hải quân
Để đối phó với những thực tế địa chính trị phức tạp này, một số quốc gia châu Âu đã tăng cường hiện diện quân sự ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, đáng chú ý nhất là thông qua các đợt triển khai hải quân. Sự can dự ngày càng tăng này không chỉ giới hạn ở các bên tham gia truyền thống như Pháp và Anh, cả hai đều là các bên liên quan lâu dài trong môi trường an ninh của khu vực do sở hữu các vùng lãnh thổ hải ngoại. Thay vào đó, một số tác nhân phi truyền thống cũng góp phần tăng cường dấu ấn quân sự của châu Âu trong khu vực.

Vấn đề an ninh luôn là chủ đề nóng trong các hội nghị của khối EU.
Ví dụ, trong những năm gần đây, khinh hạm Beyern của Đức đã thực hiện một chuyến hải trình qua Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, đánh dấu đợt triển khai đầu tiên của một tàu chiến Đức đến khu vực này trong gần 2 thập kỷ. Năm 2024, Đức thực hiện đợt triển khai thứ 2 đến khu vực này, cử khinh hạm Baden-Wurttenberg và tàu hỗ trợ tác chiến Frankfurt am Main. Nhiệm vụ này đã vấp phải sự chỉ trích từ Trung Quốc sau khi các tàu nói trên đi qua eo biển Đài Loan - đó là lần đầu tiên Đức làm như vậy trong nhiều thập kỷ. Berlin dự kiến sẽ duy trì chu kỳ triển khai tàu chiến 2 năm một lần, có khả năng sẽ tiến hành một nhiệm vụ khác tại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vào năm 2026.
Hà Lan cũng không đứng ngoài cuộc. Khinh hạm HNLMS Evertsen của họ đã tham gia nhóm tác chiến tàu sân bay (CGS) của Vương quốc Anh trong một nhiệm vụ đến Nhật Bản vào năm 2021. Năm sau, La Haye thông báo rằng họ cam kết sẽ cử một tàu chiến đến khu vực 2 năm một lần. Giữ đúng lời hứa, Hà Lan đã triển khai tàu HNLMS Tromp đến khu vực vào năm 2024. Sự hiện diện của Hà Lan không phải là không có sự cố. Tromp được cho là đã bị các máy bay chiến đấu và một máy bay trực thăng của Trung Quốc “hỏi thăm” khi đang tuần tra ở biển Hoa Đông.
Năm 2025, một số lực lượng hải quân châu Âu tiếp tục triển khai khí tài đến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Vào tháng 1, khinh hạm ITS Antonio Marceglia của Italy đã khởi hành cho một “chiến dịch triển khai hoạt động”, kết thúc nhiệm vụ vào tháng 7. Đối với một quốc gia từ trước tới nay vốn vắng mặt trong các động lực an ninh châu Á, hoạt động hải quân của Italy trong khu vực là đáng chú ý. Năm 2024, Hải quân Italy đã thực hiện nhiều đợt triển khai, bao gồm tàu tuần tra ITS Raimondo Montecuccoli và đáng chú ý là một CSG bao gồm tàu sân bay ITS Cavour và khinh hạm ITS Alpino.
Những nhiệm vụ này chứng tỏ năng lực ngày càng tăng của Italy trong việc triển khai “sức mạnh cứng”, với Montecuccoli và CSG tham gia một loạt cuộc tập trận đa phương cấp cao; đồng thời, Rome cũng tiến hành ngoại giao “sức mạnh mềm”. Tàu ITS Amerigo Vespucci, một tàu huấn luyện 3 cột buồm có ý nghĩa biểu tượng, đã thực hiện một số chuyến thăm cảng trên khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong suốt năm 2024, nhấn mạnh mối quan tâm chiến lược rộng lớn hơn của Italy trong khu vực.
Chỉ có Pháp và Vương quốc Anh là những quốc gia châu Âu có lực lượng hải quân sở hữu đầy đủ các năng lực, bao gồm tàu sân bay và tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân. Pháp thường xuyên triển khai lực lượng hải quân đến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và duy trì sự hiện diện hàng hải mạnh mẽ trong khu vực. Gần đây nhất, năm 2024, Pháp điều động một CSG như một phần của nhiệm vụ “Clemenceau 25”. Đợt triển khai bao gồm tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân FS Charles de Gaulle, 3 khinh hạm, 1 tàu chở dầu, 1 tàu hỗ trợ và cứu trợ xa bờ, 1 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân. Nhiệm vụ đã kết thúc vào tháng 4/2025.
Pháp cũng duy trì hơn 20 tàu thường trực đóng tại khu vực để bảo vệ các vùng lãnh thổ hải ngoại của mình. Tuy nhiên, những khí tài được triển khai ở tiền phương này thường thiếu năng lực tác chiến cao cấp. Mặc dù có dấu ấn quân sự lớn nhất ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong số các quốc gia châu Âu, Pháp phải đối mặt với những hạn chế năng lực đáng kể, giới hạn khả năng triển khai sức mạnh hiệu quả trên toàn khu vực.
Vấn đề nguồn lực hạn chế cũng ảnh hưởng đến Hải quân Hoàng gia Anh. Tính đến tháng 7/2025, Hải quân Hoàng gia Anh đang tiến hành “Chiến dịch Highmast” tại vùng biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Chiến dịch này có sự tham gia của 1 CSG do tàu sân bay HMS Prince of Wales dẫn đầu, cùng 1 tàu khu trục, 1 khinh hạm và 1 tàu chở dầu của Hải quân Hoàng gia Anh - chỉ bằng một nửa số tàu hộ tống so với đợt triển khai CSG trước đó của Anh đến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vào năm 2021. CSG hiện tại cũng bao gồm 1 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân của Hải quân Hoàng gia, cũng như tàu từ các nước đối tác, bao gồm Na Uy và Tây Ban Nha. Nhiệm vụ này dự kiến sẽ kết thúc vào tháng 12.
Vài năm trước, Vương quốc Anh đã làm mới sự hiện diện hải quân thường trực của mình trong khu vực bằng việc triển khai 2 tàu tuần tra xa bờ, HMS Tamar và HMS Spey, báo hiệu cam kết của mình với “sự xoay trục sang Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”. Cùng với Pháp, Vương quốc Anh vẫn là quốc gia châu Âu duy trì sự hiện diện hải quân liên tục trong khu vực.
Sấm to, mưa nhỏ
Với việc Trung Quốc nổi lên như một đối thủ thách thức, các đợt triển khai quân của các quốc gia châu Âu tại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương ngày càng mang chức năng truyền tải thông điệp. Tuy nhiên, câu hỏi vẫn là: Liệu những thông điệp này có đủ mạnh để hỗ trợ một cách có ý nghĩa cho các nỗ lực của Mỹ và đồng minh trong nỗ lực duy trì hiện trạng khu vực không?

Mỹ vẫn duy trì sự hiện diện mạnh mẽ tại châu Âu, bao gồm cả khí tài hải quân thuộc Hạm đội 6.
Một số nhà phân tích cho rằng, nếu không có đủ ý chí và tiềm lực để thực sự thách thức cán cân quyền lực khu vực hoặc chấp nhận rủi ro đối đầu quân sự, thì sự hiện diện hải quân của châu Âu tại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương chỉ là tín hiệu răn đe yếu ớt. Cơ chế răn đe hiệu quả đòi hỏi không chỉ sự rõ ràng về đối tượng và ranh giới của việc răn đe, mà còn cả năng lực và ý chí chính trị sẵn sàng hành động nếu những ranh giới đó bị vượt qua. Sự can dự hiện tại của châu Âu thiếu những yếu tố quan trọng này.
Các quốc gia châu Âu thường định hình sự hiện diện của họ ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương bằng những thuật ngữ chung chung - ví dụ như duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật lệ và bảo vệ tự do hàng hải - mà không hướng hành động của họ một cách rõ ràng vào bất kỳ quốc gia cụ thể nào. Các nhà lãnh đạo hàng đầu châu Âu không đưa ra lập trường vững chắc, thường giới hạn mình trong những khẳng định chung chung về luật pháp quốc tế và lên án bất kỳ sự gián đoạn nào đối với hiện trạng, mà không chỉ ra bất kỳ phản ứng cụ thể nào.
Lập trường thận trọng này phản ánh cả mong muốn tránh đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh, do mối quan hệ kinh tế sâu sắc của châu Âu với Trung Quốc, lẫn nhận thức về năng lực hạn chế của châu Âu trong việc răn đe một cách đáng tin cậy. Lực lượng hải quân châu Âu đã suy giảm đáng kể về quy mô kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, khiến họ thiếu trang bị vật chất cho việc triển khai sức mạnh bền vững ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Trong bối cảnh này, các quốc gia châu Âu có lẽ nên đánh giá lại thế trận của mình ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Thay vì dàn trải nguồn lực hải quân hạn chế trên các chiến trường xa xôi, cách hiệu quả nhất để bảo vệ lợi ích châu Âu là lãnh trách nhiệm lớn hơn đối với an ninh và quốc phòng của chính mình tại lục địa già. Điều này sẽ cho phép Mỹ tập trung đầy đủ hơn các nỗ lực quân sự của họ vào địa bàn chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Mỹ vẫn đang duy trì sự hiện diện mạnh mẽ tại châu Âu, bao gồm cả khí tài hải quân thuộc Hạm đội 6 của Hải quân Mỹ.
Theo các nhà phân tích, việc phân công lao động hiệu quả hơn nên là trọng tâm của liên minh xuyên Đại Tây Dương: Washington tập trung sức mạnh hải quân vào khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trong khi châu Âu đảm bảo an ninh hàng hải ở khu vực châu Âu - Đại Tây Dương, có thể kéo dài đến phía Tây Ấn Độ Dương.