Bàn cách 'làm tiến sĩ' thay vì 'học tiến sĩ'
Đây là ý kiến được đưa ra tại hội thảo 'Các giải pháp, chính sách nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ, gắn với nhu cầu nghiên cứu khoa học và nhóm nghiên cứu' với sự tham dự của hơn 20 cơ sở giáo dục đại học.
Tại hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc cho biết số lượng và chất lượng công bố quốc tế của các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) đã tăng hơn 3 lần so với 7 năm trước. Kết quả này cho thấy sự chú trọng hội nhập thế giới cũng như năng lực nghiên cứu khoa học của các trường đại học.
Theo ông Phúc, hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở GDĐH gắn bó mật thiết với công tác đào tạo, đặc biệt là đào tạo tiến sĩ. “Chúng ta mong muốn đào tạo tiến sĩ là đào tạo nhân tài, tinh hoa, nên phải đảm bảo chất lượng đầu ra” – ông Phúc nói.
Để tiếp tục thúc đẩy chất lượng đào tạo và nghiên cứu trong các cơ sở GDĐH, Bộ GD-ĐT đang xây dựng Quy chế đào tạo trình độ Tiến sĩ và Nghị định hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở GDĐH.
Ông Phúc cũng cho biết Bộ sẽ xem xét, đề xuất các phương án hỗ trợ học phí, học bổng cho nghiên cứu sinh trong nước cũng như xây dựng cơ chế chính sách để nghiên cứu sinh có thể đảm bảo cuộc sống, toàn tâm toàn ý nghiên cứu.
Quyền Vụ trưởng Vụ GDĐH - bà Nguyễn Thu Thủy cho hay trong 2 năm qua số trường đào tạo tiến sĩ gia tăng. Tuy số ngành đào tạo giảm đi, tỷ lệ nghiên cứu sinh nhập học trong nước giảm sút, nhưng số lượng học viên đăng ký năm 2020 của các trường cao hơn nhiều so với năm 2019.
Thời gian tới, Bộ GD-ĐT nghiên cứu sửa đổi Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao tinh thần tự chủ của các cơ sở GDĐH. Đồng thời có những điểm sửa đổi kỹ thuật để phù hợp với thực tiễn, nâng cao chất lượng tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ, tiệm cận với quốc tế.
Đội ngũ hướng dẫn và nhóm nghiên cứu quyết định chất lượng tiến sĩ
GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội, cho rằng việc tham gia nhóm nghiên cứu góp phần không nhỏ giúp nghiên cứu sinh công bố khoa học, đặc biệt là công bố quốc tế.
Qua thực tiễn thành lập, điều hành nhóm nghiên cứu mạnh, GS Đức chia sẻ rằng quá trình đào tạo còn giúp nghiên cứu sinh trưởng thành cả về nhân cách, hoàn thiện các kỹ năng cơ bản, thiết yếu.
Từ các khảo sát của mình, GS Đức cho rằng “có nhóm nghiên cứu và môi trường học thuật” là một trong hai yếu tố được đánh giá là quan trọng nhất, đứng sau yếu tố “chất lượng đội ngũ hướng dẫn nghiên cứu sinh”. Tuy nhiên, trên thực tế, ngoài đội ngũ hướng dẫn được đánh giá cao, những điều kiện quan trọng khác như cơ sở vật chất, kinh phí và nhóm nghiên cứu có mức độ đầu tư còn hạn chế.
Do đó, GS Đức đề xuất sửa đổi Quy chế Tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ theo hướng đặt ra yêu cầu cao đối với người học và cán bộ hướng dẫn. Đồng thời có chế độ, chính sách khuyến khích cán bộ, nghiên cứu sinh tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, tăng quy mô và chất lượng nghiên cứu sinh.
Bên cạnh đó, những giải pháp then chốt là tăng cường xây dựng, đầu tư nhóm nghiên cứu, đầu tư dài hơi cho các nhóm nghiên cứu mạnh. Nghiên cứu sinh cần làm việc toàn thời gian, tăng cường học bổng và tham gia nhóm nghiên cứu. Các trường đại học phải thu hút được nhà khoa học đầu ngành và nhân tài, đồng thời hội nhập với quốc tế…
Phải “làm tiến sĩ” thay vì “học tiến sĩ”
Đồng quan điểm với GS Đức, PGS.TS Trần Thị Thanh Tú, Trường ĐH Kinh tế - ĐH Quốc gia Hà Nội, cho rằng để đào tạo tiến sĩ thành công và đạt chuẩn quốc tế, yếu tố then chốt là chính sách thu hút giáo sư nước ngoài, nghiên cứu sinh làm việc toàn thời gian và cần xây dựng nhóm nghiên cứu.
TS Nguyễn Đắc Trung, Phó Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội, nhấn mạnh “Nghiên cứu sinh phải thực sự là người làm tiến sĩ, coi đây là công việc của họ, để toàn tâm toàn ý, từ đó nhận được lại thành quả. Từ đây mới tạo nên động lực đúng đắn, thúc đẩy nghiên cứu sinh hoàn thành tốt công việc của mình”.
TS Trung cũng chia sẻ những kinh nghiệm của Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, từ xây dựng định hướng nghiên cứu, hợp tác với nước ngoài, doanh nghiệp thành lập trung tâm nghiên cứu hỗn hợp, thu hút đầu tư đào tạo dài hạn đến ươm mầm nhân tài từ sinh viên năm thứ 3 tham gia các nhóm nghiên cứu đến sau đại học.
Còn theo GS TS Vũ Đình Lãm, Giám đốc Học viện Khoa học Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Học viện cũng đã có nhiều giải pháp để thúc đẩy đào tạo tiến sĩ như hợp tác đào tạo với đại học nước ngoài, triển khai chương trình Postdoc dành cho tiến sĩ, đẩy nhanh thời gian thực hiện các thủ tục,…
PGS.TS Lê Hiếu Giang, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP HCM, cũng cho biết thành lập những nhóm nghiên cứu là một trong những giải pháp của trường nhằm thu hút nghiên cứu sinh. “Nghiên cứu sinh không có nhóm nghiên cứu thì không có sự hỗ trợ. Nhóm nghiên cứu của chúng tôi bao gồm GS, PGS, TS, thạc sĩ, cử nhân và kỹ sư”.
Theo PGS Giang, thông qua các nhóm nghiên cứu, trường thu hút nhiều dự án để nghiên cứu giải quyết những vấn đề thực tiễn. Đồng thời, với cơ chế tự chủ, ngân sách cho phép trường hỗ trợ nghiên cứu sinh trong nghiên cứu khoa học, thưởng bài báo ISI,…
Kết luận hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc nhận định các ý kiến thảo luận đều ủng hộ việc cần thiết hình thành các nhóm nghiên cứu, do đó cần cơ chế chính sách để hỗ trợ các nhóm nghiên cứu trong GDĐH. Bộ GD-ĐT sẽ tiếp thu các ý kiến để hoàn thiện hành lang pháp lý, trong đó có dự thảo Nghị định hoạt động Khoa học công nghệ trong GDĐH.