Bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao giá trị sản xuất lúa

Việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống, áp dụng khoa học kỹ thuật, cộng với đầu tư đồng bộ hạ tầng đồng ruộng trong những năm qua đã thay đổi căn bản quá trình sản xuất. Năng suất, sản lượng, chất lượng lúa gạo không ngừng tăng cao qua các vụ. Không chỉ bảo đảm đủ nguồn cung lương thực phục vụ nhu cầu cuộc sống hằng ngày, sản xuất lúa của tỉnh đã và đang hướng tới sản xuất hàng hóa.

Nhìn lại thời điểm cách đây hơn 20 năm (từ khi mới tái lập tỉnh) sản xuất lúa của tỉnh vẫn tập trung chính vào các giống cũ, chưa áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng. Ruộng đất manh mún, úng trũng, nhiều diện tích chỉ cấy được 1 vụ ăn chắc trong năm (vụ xuân). Do vậy, năng suất lúa cả năm khi đó chỉ đạt dưới 100 tạ/ha. Sản lượng thóc sản xuất ra cơ bản đủ phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội tỉnh. Vì vậy, nhằm tạo bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống để nâng cao năng suất, sản lượng thóc hằng năm, hằng vụ, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ-TU ngày 21/5/2001 về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển ngành nghề dịch vụ ở nông thôn.

Theo đó, UBND tỉnh đã xây dựng kế hoạch và chỉ đạo ngành nông nghiệp, các địa phương triển khai đồng bộ những giải pháp phát triển sản xuất. Trong đó, xác định vụ lúa xuân đóng vai trò chủ lực vào năng suất, sản lượng cả năm. Cơ cấu mùa vụ được thay đổi căn bản với trà xuân muộn chiếm 100% diện tích. Những giống lúa lai cho năng suất cao được đẩy mạnh đưa vào gieo cấy vụ xuân. Vào thời điểm trước năm 2010, lúa lai chiếm trên 70% diện tích gieo cấy, có địa phương đạt 90% diện tích. Với vụ mùa, những giống lúa thuần có tiềm năng cho năng suất, chất lượng tốt cũng được đưa vào gieo cấy. Hướng đi này giúp những giống lúa mới đưa vào đạt yêu cầu cả về năng suất, sản lượng và giá trị.

Cùng với đó, tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quá trình chăm sóc, phòng trừ sâu, bệnh cũng được áp dụng. Đến nay, tỉnh ta đã xây dựng được Bản đồ phân tích chất lượng hóa lý tính các vùng đất chuyên trồng lúa. Từ đó làm cơ sở xây dựng quy trình chăm sóc cho từng cánh đồng, vùng sản xuất. Đồng ruộng cũng được bố trí, quy hoạch lại với hệ thống kênh mương, đường nội đồng thuận tiện cho quá trình sản xuất. Các địa phương đã thực hiện dồn đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ, thành ô thửa lớn, xóa bỏ tình trạng manh mún ruộng đất, bình quân mỗi hộ chỉ còn 1 – 2 thửa, thay 5 – 7 thửa như trước đây. Đồng thời, hạn chế được ruộng trũng, xấu, xa do thuận lợi về giao thông, thủy lợi.

Công ty cổ phần Tập đoàn giống cây trồng Việt Nam, Chi nhánh Hà Nam chuẩn bị nguồn lúa giống, phục vụ sản xuất vụ mùa 2024.

Công ty cổ phần Tập đoàn giống cây trồng Việt Nam, Chi nhánh Hà Nam chuẩn bị nguồn lúa giống, phục vụ sản xuất vụ mùa 2024.

Việc chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu giống, nâng cao năng suất đạt hơn 120 tạ/ha/năm. Nhiều giống lúa mới được đưa vào sản xuất có năng suất “vượt trần” lên đến hơn 70 tạ/ha/vụ. Bà Trần Thị Nga, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt, Bảo vệ thực vật và Kiểm lâm (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đánh giá: Sản xuất lương thực của tỉnh đã có bước thay đổi căn bản. Năng suất lúa đã tăng 20 – 30% so với cách đây hơn 20 năm. Hiện nay, sản xuất lúa không chỉ bảo đảm an ninh lương thực mà chuyển sang giai đoạn sản xuất mới, tạo ra sản phẩm hàng hóa nâng cao giá trị và thu nhập cho người dân.

Những năm gần đây, các địa phương trong tỉnh tiếp tục chuyển đổi dần sang sản xuất lúa chất lượng, nâng cao giá trị và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của thị trường. Cơ cấu lúa chất lượng của tỉnh hiện tăng lên gần 50% diện tích gieo cấy, có địa phương đạt trên 60 – 70%. Đã có nhiều mô hình tập trung ruộng đất tạo thành vùng có quy mô lớn thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp. Ông Trương Quốc Hưng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Bảo đảm an ninh lương thực tạo thắng lợi quan trọng trên đồng ruộng. Sản xuất theo hướng hàng hóa, tập trung gắn liên kết theo chuỗi giá trị là hướng phát triển tất yếu của cây lúa.

Từ việc xác định rõ hướng đi mới cho cây lúa, ngành nông nghiệp đã tham mưu với UBND tỉnh chỉ đạo đẩy mạnh chuyển đổi sản xuất lúa hàng hóa, hình thành vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. Từ cách đây hơn 10 năm, UBND tỉnh đã ban hành Đề án phát triển cánh đồng mẫu. Theo đó, các địa phương xây dựng cánh đồng mẫu có quy mô diện tích 30 ha trở lên, gọn vùng gắn kết 3 vụ trong năm (vụ lúa xuân, vụ mùa và vụ đông). Đối với cây lúa, sản xuất trên cánh đồng mẫu bảo đảm cùng giống, cùng trà, cùng quy trình chăm sóc và thực hiện liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm. Qua quá trình triển khai, trên địa bàn tỉnh xây dựng, duy trì 76 mô hình cánh đồng mẫu, tổng diện tích hơn 2.000 ha. Nhiều cánh đồng mẫu đã thực hiện liên kết với doanh nghiệp sản xuất lúa giống, lúa chất lượng đem lại hiệu quả cao.

Nạo vét kênh mương thủy lợi nội đồng, nâng cao năng lực tưới, tiêu cho sản xuất.

Nạo vét kênh mương thủy lợi nội đồng, nâng cao năng lực tưới, tiêu cho sản xuất.

Điển hình, huyện Kim Bảng xây dựng 14 cánh đồng mẫu, tổng diện tích 585 ha ở tất cả các địa phương có diện tích đất lúa đủ lớn (trừ thị trấn Quế, Ba Sao và xã Thanh Sơn), một số xã trong huyện đã xây dựng được 2 cánh đồng mẫu, như: Xã Lê Hồ, Nguyễn Úy, Đồng Hóa… Tại xã Tượng Lĩnh, nơi có 2 cánh đồng mẫu quy mô 30 ha/cánh đồng. Những vụ gần đây, Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp (HTXDVNN) Tượng Lĩnh đều thực hiện tổ chức liên kết sản xuất với Công ty TNHH Nam Dương (KCN Đồng Văn) sản xuất lúa giống ở các vụ trong năm. Theo người dân địa phương, sản xuất tập trung tạo ra sản phẩm hàng hóa tập trung trên cánh đồng mẫu rất thuận lợi. Trên diện tích sản xuất đã áp dụng cơ giới vào hầu hết các khâu, từ lấy nước, làm đất, đến gieo cấy, thu hoạch. Doanh nghiệp thu mua thóc tươi ngay tại ruộng nên không mất công phơi, bảo quản. Giá trị đem lại trong mô hình cao hơn 15 – 20% so với sản xuất đại trà bên ngoài…

Từ mô hình cánh đồng mẫu, sản xuất lúa theo hướng hàng hóa tập trung được mở rộng. Nhiều cánh đồng thực hiện gieo cấy cùng giống, cùng trà, cùng quy trình chăm sóc. Đa phần các cánh đồng chỉ còn cấy 1 – 2 giống chủ lực thay cho nhiều loại giống như trước đây. Một bộ phận người dân có nhu cầu sản xuất mượn, thuê lại ruộng của những hộ khác để sản xuất quy mô lớn. Trên địa bàn tỉnh hiện có hàng trăm hộ sản xuất có quy mô từ 5 – 10 ha trở lên, một số mô hình cá nhân tập trung ruộng đất lên đến trên 20 ha. Khi sản xuất với quy mô lớn, người dân quan tâm đầu tư để nâng cao năng suất, giá trị trên diện tích gieo cấy.

Điển hình, anh Hoàng Văn Thường, xã Tiêu Động (Bình Lục) đã thuê, mượn lại ruộng của người dân trong vùng không còn nhu cầu cấy để phát triển sản xuất, với diện tích trên 20 ha. Sau khi có ruộng anh Thường đào đắp lại bờ vùng, bờ thửa, san ruộng hạn chế chênh lệch mặt ruộng. Cùng với đó, đầu tư máy bơm, máy cày phục vụ sản xuất. Quá trình sản xuất anh liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm thóc tươi ngay sau khi thu hoạch. Theo đánh giá, bình quân mỗi năm, trừ chi phí anh Thường thu lợi nhuận từ 200 – 300 triệu đồng trên diện tích sản xuất của mình. Tại xã Thanh Hà (Thanh Liêm) hiện có 20 hộ tự tập trung ruộng đất sản xuất lúa theo hướng hàng hóa với quy mô từ 2 ha trở lên, hộ nhiều nhất lên đến gần 30 ha.

Theo ông Lại Trung Tâm, Giám đốc HTXDVNN Thanh Hà, trên địa bàn xã đã hình thành những cánh đồng sản xuất lúa hàng hóa tập trung nhờ tập trung ruộng đất của người dân. Tại đây, các hộ lựa chọn những giống lúa phù hợp với nhu cầu tiêu thụ của thị trường, giá trị sản xuất đem lại được bảo đảm, cao hơn so với trước. Quan trọng hơn, giải quyết tốt tình trạng bỏ ruộng do nhiều hộ dân hiện không còn nhu cầu cấy lúa.

Từ sản xuất lúa theo hướng tập trung đã tạo điều kiện đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất. Điển hình, khâu lấy nước, làm đất sử dụng máy móc, cơ giới đạt gần 100% diện tích; khâu thu hoạch trên 90% diện tích. Riêng khâu thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp được đưa vào đã tạo thay đổi lớn, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất. Hiện nay, việc thu hoạch lúa được nhanh, gọn, lúa chín đến đâu, thu hoạch ngay đến đấy, rút ngắn chỉ còn 30% thời gian so với thu hoạch thủ công. Qua đó, giúp giải phóng đất kịp thời bảo đảm quá trình chuyển vụ từ vụ lúa xuân sang vụ mùa và từ vụ mùa sang vụ đông. Mới nhất, khâu gieo cấy và phun phân bón, thuốc bảo vệ thực vật bằng máy bay điều khiển từ xa đang được áp dụng. Lúa cấy bằng máy đã chiếm gần 20% diện tích sản xuất mỗi vụ.

Hiện nay, năng suất, sản lượng và chất lượng lúa được nâng lên. Giá trị sản xuất bình quân trên diện tích gieo cấy theo hướng hàng hóa đạt hơn 100 triệu đồng/ha/năm. Sản xuất cây lúa đem lại nguồn thu chính cho nhiều hộ nông dân. Tỉnh ta đang tiếp tục hướng đến sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, tập trung, tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng.

Máy bay phun thuốc BVTV tại xã Thi Sơn (Kim Bảng).

Máy bay phun thuốc BVTV tại xã Thi Sơn (Kim Bảng).

Sản xuất 2 vụ lúa của tỉnh đã có bước thay đổi căn bản từ manh mún, nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa tập trung. Đồng thời, đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa vào đồng ruộng, nâng cao hiệu quả sản xuất. Cây lúa vẫn được xác định là hướng đi chính trong sản xuất trên đồng ruộng của tỉnh. Để tiếp tục nâng cao giá trị trồng lúa, Nghị quyết 15-NQ/TU ngày 15/9/2021 của Tỉnh ủy về đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu tỉnh Hà Nam giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, cũng đã nêu rõ, tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu giống bằng việc tăng tỷ lệ lúa chất lượng lên trên 50%; tỷ lệ áp dụng cơ giới trong khâu thu hoạch đạt trên 90%, gieo trồng 60%...

Tuy nhiên, để đạt mục tiêu đề ra, các địa phương trong tỉnh hiện đang gặp một số khó khăn, hạn chế nhất định. Đó là, việc tập trung ruộng đất chưa được thực hiện nhiều do tư tưởng của một bộ phận người dân không muốn chuyển đổi diện tích. Trên 1 cánh đồng có 5 – 10 ha đã quy hoạch sản xuất tập trung, chỉ cần có một vài hộ nhỏ lẻ nằm xen kẽ không đồng ý đổi diện tích rất khó bảo đảm sự đồng bộ. Tại nhiều nơi chưa tổ chức thống nhất phương thức gieo cấy trên cùng cánh đồng, có cả cấy máy, cấy thủ công và gieo thẳng. Việc đưa cơ giới hóa đồng bộ vào đồng ruộng vẫn chưa được áp dụng mở rộng ở nhiều địa phương…

Cơ giới hóa máy móc góp phần giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp địa phương.

Cơ giới hóa máy móc góp phần giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp địa phương.

Ông Nguyễn Văn Của, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: Quan trọng nhất vẫn là ruộng đất tuy đã được dồn đổi, nhưng chưa đủ lớn để hình thành vùng sản xuất tập trung. Cùng với đó, tư tưởng của một bộ phận người dân còn hạn chế, chưa mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới cũng như cơ giới hóa vào đồng ruộng. Việc áp dụng cơ giới hóa đồng bộ là giải pháp giúp giảm chi phí, nâng cao giá trị và hiệu quả. Vì vậy, để sản xuất lúa thực sự phát triển các địa phương cần có giải pháp mang tính đột phá. Trước tiên, nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương và khâu tổ chức sản xuất của các HTXDVNN quy hoạch vùng sản xuất tập trung. Hình thành các mô hình sản xuất lúa đạt tiêu chuẩn an toàn, Viet Gap, hữu cơ. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh đưa cơ giới vào đồng ruộng ở các khâu, như: gieo cấy, phun phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…

Được biết, thời gian qua, Trung tâm Khuyến nông đã xây dựng một số mô hình sản xuất lúa an toàn theo hướng Viet Gap, ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ gắn với tiêu thụ sản phẩm tại các địa phương. Qua đánh giá hiệu quả kinh tế, lúa sản xuất trong mô hình nâng cao giá trị sản xuất từ 20 – 25% so với ngoài mô hình. Việc áp dụng cơ giới hóa đồng bộ giúp giải quyết được vấn đề thiếu hụt lao động sản xuất nông nghiệp giai đoạn thời vụ. Áp dụng sản xuất lúa an toàn theo hướng Viet Gap giúp bảo vệ môi trường, xây dựng thương hiệu lúa – gạo an toàn… Những mô hình này cần tiếp tục được nhân rộng trong những vụ tới.

Thu hoạch lúa tại xã Nguyễn Úy (Kim Bảng) và xã Thanh Hà, Thanh Liêm.

Thu hoạch lúa tại xã Nguyễn Úy (Kim Bảng) và xã Thanh Hà, Thanh Liêm.

Thời gian tới, ngành nông nghiệp cần tiếp tục lựa chọn những loại giống lúa mới phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, nhất là có tiềm năng cho năng suất, chất lượng cao, khả năng phát triển thị trường tốt, đưa vào bộ giống lúa của tỉnh khuyến cáo đến người dân. Đồng thời, phát huy cao nhất hiệu quả bản đồ phân tích chất lượng hóa lý tính các vùng đất của tỉnh giúp cung cấp cho cây lúa chất dinh dưỡng tốt nhất, giảm chi phí không cần thiết khi bón thừa phân. Cùng với đó, hỗ trợ người dân trong việc liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thóc hàng hóa theo chuỗi giá trị. Sản xuất lúa hiện nay thu được lợi nhuận tốt do tác động từ giá thóc trên thị trường tăng cao. Bình quân 1 sào lúa cho năng suất hơn 2 tạ (thóc khô), đạt giá trị 2 triệu đồng, trừ chi phí, lợi nhuận đem lại đạt 50%. Những mô hình sản xuất lúa liên kết với doanh nghiệp thường tăng 5 – 10% so với diện tích đại trà. Đây là động lực để người dân gắn bó với đồng ruộng và cây lúa. Vì vậy, nếu các giải pháp trên được thực hiện hiệu quả sẽ góp phần nâng cao hơn nữa giá trị trên diện tích sản xuất của tỉnh.

Nội dung: Mạnh Hùng
Thiết kế: Đức Huy

www.baohanam.com.vn

3114

06:16 30/07/2024

bình luận

Nguồn Hà Nam: https://baohanam.com.vn/e-magazine/bao-dam-an-ninh-luong-thuc-nang-cao-gia-tri-san-xuat-lua-130289.html