Bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục chất lượng cho trẻ em gái

Đối với Việt Nam, việc bảo đảm giáo dục chất lượng, toàn diện và công bằng cho trẻ em gái, đặc biệt là trẻ em gái khuyết tật, thuộc hộ nghèo và dân tộc thiểu số theo Mục tiêu phát triển bền vững số 4 của Liên hợp quốc, là một thách thức lớn nhưng cần thiết để sớm thu hẹp khoảng cách, bảo đảm mọi trẻ em đều có cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng, góp phần vào sự phát triển bền vững và công bằng của xã hội.

Tỷ lệ học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến trường ngày một tăng cao. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Tỷ lệ học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến trường ngày một tăng cao. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Những thách thức

Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao tỷ lệ tiếp cận giáo dục cơ bản cho trẻ em, đồng thời thu hẹp khoảng cách giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái.

Theo Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu năm 2024 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), chỉ số bình đẳng giới trong giáo dục của Việt Nam đã đạt mức cao so với nhiều quốc gia trong khu vực, xếp hạng 76/156 quốc gia, cao hơn 13 bậc so với năm 2023.

Trong đó, Việt Nam đạt được sự cân bằng giới trong giáo dục Trung học phổ thông (THPT) và trong tuyển sinh vào giáo dục đại học. Những kết quả này phản ánh sự tiến bộ tích cực trong việc bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục tại Việt Nam.

Tuy nhiên, theo số liệu được tính toán từ Tổng cục Thống kê (2024), có sự chênh lệch khá lớn về mức độ tiếp cận giáo dục chất lượng giữa trẻ em tại các vùng miền, tỉnh thành, các nhóm dân cư khác nhau và nhóm dân tộc.

Ở cấp mẫu giáo, mầm non, có sự cách biệt đáng kể trong việc trẻ từ 3-36 tháng tuổi đi nhà trẻ trong 12 tháng qua giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các vùng, nhóm mức sống.

Trẻ em gái tại khu vực thành thị có xu hướng đi nhà trẻ cao gấp 11,4 lần trẻ em gái ở khu vực nông thôn. Trẻ em gái từ 3-36 tháng tuổi đi nhà trẻ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (5,9%) thấp hơn nhiều so với vùng Đồng bằng sông Hồng (30,7%) và vùng Đông Nam Bộ (22,5%).

Tỷ lệ đi học thấp nhất ở nhóm nghèo nhất (12%) và cao nhất ở nhóm giàu nhất (31,2%). Trẻ em dân tộc thiểu số có tỉ lệ đi học thấp hơn trẻ em dân tộc kinh (14,5% so với 19,6%).

Ở cấp tiểu học và trung học cơ sở không có sự chênh lệch về tỷ lệ đi học giữa trẻ em gái vùng nông thôn, thành thị; giữa các vùng trong cả nước; giữa các dân tộc hay nhóm thu nhập. Tuy nhiên, càng lên cấp học cao hơn, tỷ lệ trẻ em gái đi học ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số cũng như trẻ em thuộc hộ gia đình nghèo nhất... càng giảm.

Đặc biệt là ở cấp THPT tỷ lệ trẻ em gái đi học ở thành thị cao hơn ở nông thôn là 8,5 điểm phần trăm (thành thị: 90,2% so với nông thôn: 81,7%); vùng Đồng bằng sông Hồng cao hơn vùng Tây Nguyên và vùng Đồng bằng sông Cửu Long (97,8% so với 71,6% và 73,8%); trẻ em gái thuộc dân tộc kinh (89,6) được đi học cao hơn gấp 31 điểm phần trăm so với trẻ em gái là người dân tộc khác (58,6%); trẻ em gái thuộc nhóm thu nhập của hộ nghèo nhất vẫn thấp hơn rất nhiều (20,4 điểm phần trăm) so với trẻ em gái thuộc hộ giàu nhất.

Mặc dù tỷ lệ nhập học đã được cải thiện, nhiều trẻ em gái dân tộc thiểu số vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục chất lượng. Nguyên nhân bao gồm rào cản ngôn ngữ, khoảng cách địa lý và điều kiện kinh tế khó khăn. Đặc biệt, việc thiếu giáo viên biết tiếng dân tộc và tài liệu giảng dạy phù hợp làm giảm hiệu quả học tập của các em.

Ngoài ra, khó khăn về ngôn ngữ giao tiếp, sự tồn tại của những tập tục lạc hậu ở một số vùng miền đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số đã tác động đến điều kiện, cơ hội học tập của trẻ em gái. Thực tế, tư tưởng trọng nam khinh nữ ở một số tộc người (người Chăm, người Dao…) hay cách phân công lao động theo giới, tư tưởng tảo hôn ở các dân tộc H’Mông, Dao, Ra Glai… là nguyên nhân cản trở nhiều nhất đến tiếp cận giáo dục của trẻ em gái.

Tập quán kết hôn sớm và nhu cầu sinh con, làm mẹ ở người Cơ tu đã ảnh hưởng đến khả năng theo học của học sinh nữ. Mặc dù trẻ em gái người Cơ tu vẫn muốn được đi học, song vẫn muốn hoàn thành nhiệm vụ là một người phụ nữ của gia đình nên tập quán này dẫn đến sự báo động nghiêm trọng đối với chất lượng học tập và sức khỏe sinh sản của học sinh nữ THPT.

Trẻ em khuyết tật nói chung và trẻ em gái khuyết tật nói riêng thường phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc tiếp cận giáo dục, bao gồm thiếu cơ sở hạ tầng phù hợp, thiếu giáo viên được đào tạo về giáo dục hòa nhập và định kiến xã hội. Nhiều trường học chưa có điều kiện vật chất đáp ứng nhu cầu đặc biệt của học sinh khuyết tật, dẫn đến việc các em không thể tham gia học tập một cách hiệu quả.

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo môi trường sống an toàn, lành mạnh để trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo môi trường sống an toàn, lành mạnh để trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Theo thống kê, hơn 90% trẻ khuyết tật thiếu điều kiện tiếp cận ít nhất hai dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, dinh dưỡng, nhà ở, nước sạch và vệ sinh (Lao động trẻ, 2024). Ngoài ra, trong thời đại số hóa, việc tiếp cận công nghệ thông tin của trẻ em gái khuyết tật cũng là một thách thức lớn, các em gặp khó khăn trong việc tiếp cận kiến thức mới và phát triển kĩ năng số; hạn chế khả năng tiếp cận thông tin, mở rộng kiến thức và phát triển kĩ năng cần thiết cho tương lai.

Điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn có tác động đến bình đẳng trong giáo dục, trong đó có trẻ em gái, đặc biệt là trẻ em gái dân tộc thiểu số của các gia đình ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không đủ khả năng chi trả các chi phí liên quan đến giáo dục như học phí, sách vở, đồng phục và chi phí đi lại.

Gia đình có thu nhập thấp thường ưu tiên lao động hơn là giáo dục, dẫn đến việc trẻ em gái phải nghỉ học sớm để phụ giúp gia đình. Mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ, trẻ em gái thuộc hộ nghèo vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục chất lượng. Trẻ em gái tại các khu vực thành thị thường có điều kiện tiếp cận giáo dục tốt hơn, với cơ sở vật chất đầy đủ, giáo viên chất lượng và cơ hội tiếp cận công nghệ thông tin cao.

Cơ sở vật chất cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Đến hết năm 2023, cả nước có gần 628.571 phòng học các cấp mầm non, phổ thông công lập, tăng 73.290 phòng học so với năm 2013.

Trong đó, số phòng học kiên cố là 545.375 phòng, đạt tỷ lệ kiên cố hóa 86,6%. Tuy nhiên, tại nhiều địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ này vẫn chưa đồng đều, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Nhiều trường học chưa có đủ phòng học kiên cố, dẫn đến việc học sinh phải học trong điều kiện không bảo đảm.

Phòng thí nghiệm, thư viện và phòng học nghệ thuật thường thiếu hoặc không đạt tiêu chuẩn, ảnh hưởng đến việc phát triển toàn diện của học sinh. Không chỉ vậy, nhiều trường học thiếu nhà vệ sinh đạt chuẩn và nguồn nước sạch, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và vệ sinh cá nhân của học sinh, đặc biệt là trẻ em gái trong độ tuổi dậy thì.

Giải pháp tăng cường tiếp cận giáo dục chất lượng

Thời gian qua, Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách ưu việt trong giáo dục, đặc biệt Nghị quyết 42-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yên cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới nhấn mạnh việc bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng, trong đó có giáo dục.

Gần đây nhất, Bộ Chính trị đã quyết định thực hiện miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ mầm non đến hết THPT công lập trên phạm vi cả nước, bắt đầu từ năm học 2025-2026. Đây không chỉ là một chính sách hỗ trợ, mà còn thể hiện trách nhiệm và cam kết mạnh mẽ của Nhà nước đối với công bằng xã hội, hướng tới một nền giáo dục hiện đại, bình đẳng và chất lượng, thu hẹp khoảng cách vùng miền và phát triển nguồn nhân lực bền vững.

Tuy nhiên, để chính sách thực sự hiệu quả, cần có những giải pháp đồng bộ, toàn diện từ cơ sở hạ tầng, đội ngũ giáo viên đến các chính sách hỗ trợ phù hợp. Thời gian tới, để tăng cường hơn nữa khả năng tiếp cận giáo dục chất lượng cho mọi trẻ em, trong đó, có trẻ em gái, cần chú trọng một số giải pháp sau:

Một là, thực hiện đầy đủ, hiệu quả hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền học tập; tiếp tục rà soát, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục phù hợp thực tiễn phát triển, bảo đảm nền giáo dục hiện đại, bình đẳng và chất lượng cho tất cả mọi người; có cơ chế giám sát, bảo đảm các chính sách, pháp luật được thực thi đúng, đủ, kịp thời.

Theo Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu năm 2024 của Diễn đàn Kinh tế thế giới, chỉ số bình đẳng giới trong giáo dục của Việt Nam đã đạt mức cao so với nhiều quốc gia trong khu vực, xếp hạng 76/156 quốc gia, cao hơn 13 bậc so với năm 2023. Trong đó, Việt Nam đạt được sự cân bằng giới trong giáo dục THPT và trong tuyển sinh vào giáo dục đại học. Những kết quả này phản ánh sự tiến bộ tích cực trong việc bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục tại Việt Nam.

Hai là, chú trọng rà soát, nâng cấp cơ sở vật chất, xây dựng phòng học kiên cố, trang bị đầy đủ phòng chức năng và đảm bảo điều kiện vệ sinh, nước sạch tại các trường học, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú phải bảo đảm các điều kiện an ninh, an toàn cho trẻ em, nhất là trẻ em gái.

Ba là, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên hơn nữa về tiền lương, phụ cấp, nhà ở, chế độ nghỉ ngơi đối với cán bộ, giáo viên đến công tác ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn bằng ngân sách của tỉnh và sự hỗ trợ của Nhà nước. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, đặc biệt là về bình đẳng giới và phương pháp giảng dạy hiện đại nhằm tăng cường tiếp cận giáo dục chất lượng cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái.

Học sinh dân tộc thiểu số rất ít người trong giờ học thể dục. (Nguồn: CPV)

Học sinh dân tộc thiểu số rất ít người trong giờ học thể dục. (Nguồn: CPV)

Bốn là, đẩy mạnh vận động, huy động đến trường đối với các nhóm trẻ em có nguy cơ bỏ học để tham gia lao động và kết hôn sớm, nhất là trẻ em gái thuộc gia đình nghèo, khu vực miền núi, dân tộc thiểu số. Đồng thời, các địa phương căn cứ tình hình thực tế để xây dựng các giải pháp tổng thể, kết hợp giữa tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức với giải pháp hỗ trợ các hộ gia đình phát triển kinh tế, tăng thu nhập.

Năm là, đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục phù hợp với văn hóa, phong tục tập quán và điều kiện của từng dân tộc và từng vùng dân tộc. Ngoài ra, đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần xây dựng đội ngũ quản lý giáo dục và giáo viên là người dân tộc thiểu số để tự bản thân mỗi dân tộc chủ động tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.

Sáu là, nâng cao nhận thức về giới của các cấp Đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương, đội ngũ cán bộ, giáo viên trong ngành giáo dục và cả người dân. Tổ chức các chương trình tuyên truyền nhằm xóa bỏ định kiến giới, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục đối với trẻ, nhất là trẻ em gái.

ThS. ĐÀO THỊ VI PHƯƠNG - ThS. BÙI DIỄM HẰNG

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/bao-dam-quyen-tiep-can-giao-duc-chat-luong-cho-tre-em-gai-316582.html