Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam: 30 năm 'Định hình một phong cách bảo tàng'

Nhân kỷ niệm 30 năm thành lập bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Chiều 24/10 tại bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã diễn ra hội thảo khoa học có chủ đề 'Định hình một phong cách bảo tàng' với sự góp mặt của nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý và đại diện các bảo tàng tại Hà Nội.

Phát biểu đề dẫn hội thảo, TS. Bùi Ngọc Quang, Phó Giám đốc phụ trách bảo tàng Dân tộc học Việt Nam chia sẻ: “Bảo tàng không chỉ là nơi lưu giữ, giới thiệu di sản văn hóa dân tộc mà còn là không gian học thuật, nơi thử nghiệm các mô hình bảo tàng sống, trưng bày có sự tham gia của cộng đồng, của chủ thể văn hóa tham gia bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị tri thức dân gian và ứng dụng công nghệ trong giáo dục di sản”.

Đổi mới trải nghiệm, tương tác và kết nối với chủ thể văn hóa.

Nhắc đến bảo tàng, người ta thường nghĩ đến những không gian tĩnh lặng với các hiện vật bất động. Các chuyên gia khẳng định, hiện vật vẫn là trung tâm của các bảo tàng. Tuy nhiên, giá trị của hiện vật không chỉ nằm ở nội tại của nó mà còn nằm ở sức sống của nó trong đời sống văn hóa cộng đồng, và quan trọng hơn cả đó là cách mà các bảo tàng trưng bày hiện vật. Như cách mà nhiều chuyên gia cùng chia sẻ quan điểm tại hội thảo “Định hình một phong cách bảo tàng” là cách để cho các hiện vật kể lại một một câu chuyện của chính hiện vật ấy.

"Ngày nay, bảo tàng không chỉ đơn thuần là nơi lưu giữ cổ vật mà còn trở thành trung tâm văn hóa năng động, điểm hẹn của nghệ thuật và cộng đồng, thu hút đông đảo khách tham quan, đặc biệt là giới trẻ", TS. Bùi Ngọc Quang nhận định.

"Ngày nay, bảo tàng không chỉ đơn thuần là nơi lưu giữ cổ vật mà còn trở thành trung tâm văn hóa năng động, điểm hẹn của nghệ thuật và cộng đồng, thu hút đông đảo khách tham quan, đặc biệt là giới trẻ", TS. Bùi Ngọc Quang nhận định.

Thay vì chỉ tập trung vào việc bảo tồn và trưng bày hiện vật, nhiều bảo tàng đã chủ động tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, nghệ thuật… để tương tác với công chúng. TS Nguyễn Anh Minh, Giám đốc bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam lấy ví dụ: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã tổ chức các buổi hòa nhạc kết hợp mỹ thuật, biến không gian trưng bày thành nơi giao thoa giữa âm nhạc và nghệ thuật thị giác như chương trình “Khi âm nhạc hòa quyện với mỹ thuật”, chương trình “Giai điệu bốn mùa”… đã trở thành sự kiện âm nhạc độc đáo của Thủ đô.

“Chúng tôi mong muốn biến bảo tàng không chỉ là nơi trưng bày tĩnh lặng mà còn là không gian giao lưu văn hóa, nơi công chúng có thể trải nghiệm văn hóa, nghệ thuật theo cách gần gũi và sinh động nhất”, ông Nguyễn Anh Minh (thứ 2 bên trái) chia sẻ.

“Chúng tôi mong muốn biến bảo tàng không chỉ là nơi trưng bày tĩnh lặng mà còn là không gian giao lưu văn hóa, nơi công chúng có thể trải nghiệm văn hóa, nghệ thuật theo cách gần gũi và sinh động nhất”, ông Nguyễn Anh Minh (thứ 2 bên trái) chia sẻ.

Nhiều chuyên gia đều đồng tình cho rằng, hiện vật là trung tâm của bảo tàng. Tuy nhiên, trưng bày hiện vật không đơn giản là mang hiện vật đó trưng bày trong tủ kính, hay một không gian nào đó, mà hơn thế trước khi trưng bày chúng ta phải nghiên cứu xuất phát của hiện vật, những câu chuyện, lịch sử, văn hóa, đời sống của hiện vật đó trong không gian văn hóa của nó, vai trò và vị trí của nó tác động đến đời sống con người như thế nào và tương lai của hiện vật sẽ đi về đâu. Từ đó bảo tàng sẽ không chỉ kể một câu chuyện của hiện vật cho khách tham quan mà còn có thể viết lại, viết tiếp câu chuyện của hiện vật ở trên chính không gian văn hóa của hiện vật đó. Sự tương tác qua lại giữa bảo tàng, không gian văn hóa gốc của hiện vật và khách tham quan sẽ thực sự khiến cho các hiện vật “sống”, khiến bảo tàng “sống” và định hình giá trị cho bảo tàng.

Các không gian trưng bày ngoài trời, không gian trưng bày mở luôn hấp dẫn khách tham quan.

Các không gian trưng bày ngoài trời, không gian trưng bày mở luôn hấp dẫn khách tham quan.

TS Bùi Ngọc Quang nhấn mạnh: “Bảo tàng không chỉ là nơi trưng bày các hiện vật, mà như chúng tôi đã làm 30 năm qua, bảo tàng dân tộc học còn là nơi để chính những người dân ở trong không gian văn hóa gốc của hiện vật đến tìm hiểu về văn hóa của chính họ. Như câu chuyện nhà Rông truyền thống của người Bana tại bảo tàng hiện nay do chính những nghệ nhân người Bana ở làng Kon Rbàng, xã Ngọk Bay, tỉnh Quảng Ngãi (Kon Tum cũ) dựng lên từ hơn 20 năm trước. Và cũng chính họ, sau khi giúp bảo tàng dựng ngôi nhà Rông truyền thống này đã ý thức được việc cần phải gìn giữ giá trị của nhà Rông, họ trở về và sửa sang lại ngôi nhà Rông đã bị biến đổi trước đó về đúng với ngôi nhà Rông truyền thống”.

Hợp tác quốc tế, trưng bày xuyên biên giới cũng là một xu thế được nhiều bảo tàng trên thế giới quan tâm. Trong ảnh: Không gian trưng bày văn hóa Hàn Quốc tại bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

Hợp tác quốc tế, trưng bày xuyên biên giới cũng là một xu thế được nhiều bảo tàng trên thế giới quan tâm. Trong ảnh: Không gian trưng bày văn hóa Hàn Quốc tại bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

“Đối với bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, hiện vật không phải là những bảo vật quốc gia mà là những hiện vật hết sức đời thường. Nhưng những hiện vật đời thường ấy đang kể những câu chuyện hết sức quan trọng của đời sống xã hội. Những câu chuyện của hiện vật mới là thứ mang lại giá trị thực sự cho hiện vật đó”, TS Bùi Ngọc Quang đồng tình.

Ứng dụng công nghệ, không ngừng đổi mới sáng tạo

Sự phát triển của công nghệ số đã tạo điều kiện cho các bảo tàng đổi mới cách tiếp cận công chúng. Nhờ ứng dụng công nghệ thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) và kỹ thuật trình chiếu 3D, kết hợp với các không gian trưng bày mở giúp bảo tàng không chỉ đơn thuần là nơi trưng bày hiện vật mà đã trở thành không gian trải nghiệm sống động, hấp dẫn khách tham quan.

Không gian trình diễn ngoài trời giúp tăng khả năng tương tác của chủ thể văn hóa với khách tham quan.

Không gian trình diễn ngoài trời giúp tăng khả năng tương tác của chủ thể văn hóa với khách tham quan.

Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã triển khai nhiều dự án ứng dụng công nghệ giúp khách tham quan có thể tương tác với tác phẩm nghệ thuật, khám phá câu chuyện đằng sau hiện vật thông qua các ứng dụng thông minh. Theo thống kê, sau khi ứng dụng công nghệ mới, lượng khách tham quan trực tuyến của bảo tàng đã tăng hơn 50% so với trước đây. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cũng thường xuyên có các chương trình trưng bày, trình diễn, giao lưu trong không gian mở, ngoài trời nhằm tăng khả năng tương tác.

PGS.TS Nguyễn Văn Huy, nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, nhận định: “Trưng bày trong không gian mở, ứng dụng công nghệ không chỉ giúp bảo tàng mở rộng khả năng tiếp cận công chúng mà còn tạo ra trải nghiệm sinh động, thúc đẩy sự tương tác và khám phá một cách sáng tạo hơn. Đây là xu hướng tất yếu để bảo tàng thu hút khách tham quan, đặc biệt là thế hệ trẻ”.

Rất đông các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý trong lĩnh vực bảo tàng tham gia hội thảo

Rất đông các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý trong lĩnh vực bảo tàng tham gia hội thảo

“Công nghệ không chỉ giúp cho việc quản lý mà quan trọng hơn là giúp cho công tác truyền thông, quảng và quan trọng hơn cả là hỗ trợ việc trưng bày. Ứng dụng công nghệ trong việc trưng bày sẽ đảm bảo tính sáng tạo và năng động cùng khả năng đổi mới liên tục, phù hợp với xu thế và giới trẻ. Khi có sản phẩm và sản phẩm luôn đổi mới, phù hợp thì sẽ có khách tham quan, và khách tham quan sẽ trả lời cho sự thành công của bảo tàng, sẽ giúp định hình lên phong cách bảo tàng”, TS Nguyễn Anh Minh bày tỏ.

Thư Vũ/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/van-hoa/bao-tang-dan-toc-hoc-viet-nam-30-nam-dinh-hinh-mot-phong-cach-bao-tang-post1240600.vov