Báo Tiếng Dân và cuộc đời của nhà báo yêu nước Huỳnh Thúc Kháng
Năm 1926, chí sĩ yêu nước Huỳnh Khúc Kháng được bầu làm Viện trưởng Viện dân biểu Trung Kỳ. Ông đã xin phép Khâm sứ Trung Kỳ cho phép thành lập báo Tiếng Dân, số báo đầu tiên ra đời vào ngày 10/8/1927. Có thời điểm, trước 2 ngày phát hành báo, tòa soạn phải nộp cho Sở Liêm phóng Trung Kỳ kiểm duyệt. Huỳnh Thúc Kháng đã quyết định những đoạn bị cắt bỏ cũng sẽ để trống, đây là điều đặc biệt thể hiện sự phản kháng của ông.
DIỄN ĐÀN CỦA DÂN
Có nhiều số báo Tiếng Dân vẫn được lưu giữ nguyên vẹn. Tờ báo Tiếng Dân phát hành tháng 10/1927, đầu măng sét là câu danh ngôn: “Có khó mới biết khôn, muốn khôn phải chịu khó”. Mỗi số báo đều có câu danh ngôn, hoặc ca dao và với thời điểm gần 100 năm về trước, những câu danh ngôn, ca dao này đều có tính thu hút, tạo ra sự bàn luận, ví dụ như: Người khổ không tự biết mình (nhân khổ bất tự trị); Không tham bồ lúa anh đầy, tham ba hàng chữ làm thầy thế gian; Ngăn miệng dân khác nào ngăn nước sông...”.
Tin tức trên số báo xuất bản vào tháng 10/1927 đã trở thành nguồn tư liệu cho báo chí nhân sự kiện 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam, ví dụ như phần tin tức có đăng tin “Tòa Thượng thẩm đã xử án cậu Phạm Tất Đắc là người làm quyền Chiêu Hồn Nước. Ngài buộc tội Phạm Tất Đắc gây rối loạn và gây lên nhiều việc phiến loạn gần đây. Cậu Phạm Tất Đắc khai tại tòa bằng tiếng Pháp và dáng điệu của cậu rất bạo dạn...”. Tác giả và bài thơ này từng được đưa vào sách giáo khoa văn học, giai đoạn 1990 - 2002.

Ông Nguyễn Trượng (ở huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi) với phiên bản tờ báo Tiếng Dân của Cụ Huỳnh Thúc Kháng. Cha của ông Trượng từng chôn cất cụ Huỳnh Thúc Kháng.
Trong số báo xuất bản ngày 02/3/1936, phần tin tức có đăng bài thể hiện Tiếng Dân. Ví dụ như tin bán rượu chạy ở Quảng Bình nhưng bị giam. Ở Quảng Trạch, Quảng Bình mấy ngày nay người ta thì thầm với nhau một chuyện lạ, việc bán rượu chạy mà bị giam. Ngày 19/02/1926, ông Lê Xuân Hy bị quan bắt giam. Lâu nay nghe nói bán rượu mà dân không mua phải quở phạt, nay chính người bán rượu chạy cũng bị quở phạt là cái lẽ gì. Tin vụ quan hai Des Champs bị bắt vì môi giới cho Đảng Cộng sản, vụ này ngoài Des Champs ra có 38 người liên quan cũng bị bắt, tựu trung có 2 người trọng yếu là Trần Văn Giàu và Nguyễn Văn Đức. Đức và Giàu đều quê ở Tân An, qua Pháp học Toulouse... Tờ báo Tiếng Dân được phát hành công khai, nên nội dung luôn bị kiểm duyệt và đối mặt với nguy cơ bị đình bản, đóng cửa. Bởi vì cụ Huỳnh Thúc Kháng là người có lý lịch đặc biệt, từng là tù nhân chính trị ở Côn Đảo 13 năm, khi ra tù đã ứng cử và trở thành Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Bài phát biểu của cụ từng gây chấn động khi nói về 3 tồn tại lớn: “học giới bó buộc”, “tài nguyên kiệt quệ” và “hình luật phiền lụy”.
TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC
Huỳnh Thúc Kháng viết: “Nhà nước vì cuộc trị an buộc phải thi hành cái hình luật nghiêm ngặt (báo sách bị cấm, bị bắt, dân gian bị xét nhà xét cửa, cho đến diễn thuyết làm trường học cũng bị lụy), những người làm quấy mà bị tội đã đành, mà những kẻ oan hẹp cũng không ít, gia dĩ tội danh không được rõ ràng, chứng cớ không được xác thực (ở Trung kỳ bắt tội đã không tuyên án cho người bị tội biết, lại không được cải lẽ nữa, thật là một điều rất lạ) những bọn sinh sự dân công, hiệp hiềm vu oán, nhân đó mà thi cái thủ đoạn ám muội”.
Làm việc ở Viện Dân biểu Trung Kỳ, là nơi mang tiếng nói của người dân đến với nhà cầm quyền vào thời đó, nhưng sau này Huỳnh Thúc Kháng nhận ra, cơ quan này không có tiếng nói thực chất, điều đó cũng ảnh hưởng dần đến xu hướng tin tức của tờ báo Tiếng Dân. Trong cuốn Huỳnh Thúc Kháng tự truyện, cụ đã nói về việc này như sau: “Năm 1928... Nhưng trải qua hai lần Đại hội đồng thường niên tôi thấy rõ chân tướng của nó, tên là Dân Biểu nhưng kỳ thực chỉ là Phòng Tư - Phỏng cải trang, không có ý nghĩa gì. Tháng 10 năm ấy tôi có bài diễn văn bế mạc, chỉ trích gắt gao chính sách của chính phủ Pháp thi hành tại Trung kỳ, cho là bất hợp tình thế, khiến nhân dân thêm ác cảm, buộc phải cải cách”. Sự kiện này được báo chí thời đó xem như phát ngôn chấn động Đông Dương.
Trong suốt 16 năm hoạt động (1927 - 1943) với 1.766 số báo được xuất bản, Tiếng Dân là một trong những tờ báo đã tạo ra tiếng vang lớn, là tờ báo yêu nước cách mạng. Tờ báo đã phản ánh không khí, đời sống chính trị trong nửa đầu thế kỷ XX. Còn nhớ số báo đầu tiên được phát hành, Cụ Huỳnh Thúc Kháng viết:
“Mục đích của Bản báo là theo tâm lý chân chính của quốc dân mà phô bày trên tờ giấy, cốt giữ gìn cái nền đạo đức sẵn có của ông bà, mà dung hợp với học thuật tư tưởng mới, để mở mang đường trí thức, đường kinh tế trong nước, công lý là hướng đường đi, công lợi là nơi quy túc, không thiên vị về đảng phái riêng, không cổ động về ảnh hưởng trống, cùng quốc dân làm bạn mà có hơi trái tai đắng miệng, đem lòng thành mà can lại quốc dân, lấy dư luận làm thầy mà cũng có hồi vạch lối tìm phương, nêu lẽ phải để đem đường cho dư luận. Đối với đồng bào xin làm vị thuốc đắng, mong rằng bỏ lòng ghen ghét mà dốc dạ thương yêu; đối với Chính phủ xin làm người bạn ngay, mong rằng theo trình độ dân mà thật lòng cải cách. “Trăm vạn quân không bằng một tờ báo”, Bản báo không dám mượn câu ấy mà tự cao, “Một việc thực hơn trăm điều nói không”, Bản báo xin ghi câu nầy mà gắng sức”.

Trụ sở Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ ở huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, nơi Cụ Huỳnh Thúc Kháng sống và làm việc vào những năm cuối đời
LỚP BÁO CHÍ ĐẦU TIÊN
Ngày 02/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia Chính phủ lâm thời với cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Cụ nói: “Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng phải ra sức phụng sự Tổ quốc”. Từ ngày 31/5/1946 - 20/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp, cụ được giao giữ chức vụ Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử cụ làm đặc phái viên của Chính phủ đi kinh lý miền Trung, chuẩn bị “toàn dân kháng chiến, toàn quốc kháng chiến”. Ngày 21/4/1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng qua đời tại Quảng Ngãi.
Trước khi mất, cụ viết thư chào Chủ tịch Hồ Chí Minh, có đoạn ghi: “Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mươi năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay nước đã độc lập, chế độ dân chủ đã thực hiện, thế là tôi chết hả... Chúc cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân trên đường vinh quang hạnh phúc”.
Cuối năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Tổng bộ Việt Minh mở trường dạy làm báo, coi đó là một trong những việc cấp bách phải làm. Theo đó, sáng 04/4/1949, tại xóm Bờ Rạ (nay thuộc xã Tân Thái, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên), đã diễn ra một sự kiện quan trọng, lễ khai giảng khóa học đầu tiên của Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng. Lớp có 42 học viên, 29 giảng viên, đồng chí Trường Chinh dạy viết xã luận, bình luận, đồng chí Võ Nguyên Giáp dạy viết bài phản ánh về quân sự, đồng chí Hoàng Quốc Việt dạy về chính trị, nhà văn Nam Cao dạy viết văn... Học viên nữ chỉ có 3 người là bà Phương Lâm, Lý Thị Trung và Phạm Thị Mai Cương.
Gần 100 năm kể từ ngày tờ báo yêu nước của Cụ Huỳnh Thúc Kháng ra đời, tờ báo này vẫn luôn thu hút đối với các thế hệ nhà báo, bởi tính tôn chỉ, mục đích của báo chí trong thời kỳ nào cũng vậy, đó là diễn đàn để phản ảnh tiếng nói của nhân dân.