Bảo tồn nghề sao trà thủ công ở Tà Xùa

Giữa bồng bềnh mây trắng Tà Xùa (Sơn La), những gốc trà shan tuyết cổ thụ âm thầm lưu giữ bao ký ức. Nghề làm trà thủ công với công đoạn sao trên chảo gang bếp củi đã có lúc mai một. Nhưng giờ đây, nhờ đam mê, sự kiên nhẫn của người dân và những người say mê trà shan tuyết, lửa sao trà đã bập bùng trở lại.

Du khách trải nghiệm sao trà bằng chảo gang.

Du khách trải nghiệm sao trà bằng chảo gang.

Từ trường học thiên nhiên...

Chúng tôi gặp anh Nguyễn Thành Kiên giữa sương mờ Tà Xùa. Từ Hà Nội, anh đã lên đây cả chục năm, mang theo tâm hồn phố thị lẫn niềm say mê với trà shan tuyết. Bước vào căn bếp nhỏ, khói củi quyện hương trà, anh cùng bà con sao trà trên chảo gang, chuyện trò về vụ trà xuân khắp bản đang ngóng đợi, về những ngày mưa, gió và sương tràn qua mái nhà, cả thành công và thất bại đã trải qua. Tà Xùa như trường học thiên nhiên dạy con người cách kiên nhẫn, tỉ mỉ để mỗi búp trà là kết tinh của gió sương, nắng mưa và chờ đợi.

Những người cao niên cho rằng: “Muốn hiểu trà, hãy đeo gùi, leo núi hái được mẻ trà về đã”. Trà Shan tuyết cổ thụ mọc tự nhiên trên núi cao, trải qua bao mùa sương gió trở thành nguồn nguyên liệu quý giá cho nhiều phẩm trà khác nhau: bạch trà, lục trà, hoàng trà, hồng trà... và các loại trà kết hợp độc đáo như trà ống lam, trà quýt, trà shan chít…

Sáng tinh mơ, người dân đeo gùi, leo lên cây trà cổ thụ, cẩn thận bấm từng búp. Chỉ khi nắng dịu, thời tiết thuận lợi mới có thể hái được khoảng 3-4 kg búp trà tươi, trải ra hong dưới ánh nắng và gió núi. Ngồi bên bếp củi, người H’Mông tay trần sao trà trên chảo gang. Đây là kỹ thuật thủ công đòi hỏi khéo léo, cảm giác tinh tế và sức bền thể chất lẫn tinh thần.

Người dân sao trà cũng hướng dẫn du khách quốc tế trải nghiệm thực tế. Vừa làm họ vừa kể chuyện về mùa xuân, búp trà “một tôm” được dùng làm bạch trà. Đó là phần quý hiếm nhất của cây trà, giữ nguyên vẹn dược tính và lớp lông mao mịn. Cách sao trà thủ công đòi hỏi cẩn trọng vì búp trà nhỏ hấp thụ nhiệt nhanh, dễ gãy nếu không khéo. Người làm trà phải đảo tay liên tục theo nhịp hơi nóng, để vừa giữ màu, vừa giữ hương và vị thanh khiết.

Hiện tại, người H’Mông ở Tà Xùa chủ yếu sao trà bằng lồng bán thủ công. Kỹ thuật sao trà bằng chảo gang vẫn chưa phổ biến. Phương pháp truyền thống này giúp trà giữ được hương vị tinh túy, sắc nước êm dịu, hậu vị sâu, khác biệt so với trà sao bằng máy công nghiệp hay lồng quay. Trà sao chảo gang được bán với giá cao gấp 4-5 lần trà sao bằng lồng, góp vào nguồn thu nhập quan trọng cho người dân bản địa.

A Lừ cùng một số thanh niên ở Tà Xùa qua nhiều năm miệt mài đã học cách nhận biết chất lượng trà theo búp, lá, ánh kim lông mao và độ ẩm. Họ cũng đang thử nghiệm các loại trà kết hợp mới là trà ống lam, trà shan quýt hay trà hoa. Loại nào cũng cần quan sát tỉ mỉ thiên nhiên, lựa chọn nguyên liệu phù hợp và kiên nhẫn trong quá trình sao, ủ, phơi nắng.

 Bà con ở Tà Xùa sao trà trên chảo gang.

Bà con ở Tà Xùa sao trà trên chảo gang.

Anh Nguyễn Thành Kiên cẩn trọng giải thích, trà shan quýt phải hái đúng dịp quả quýt rừng ương, không quá xanh hay chín, rửa sạch, khoét ruột, nhồi trà hoàng, phơi nhiều ngày mới đạt hương vị trọn vẹn. Mỗi mùa trà mang nhịp sống riêng. Trà vụ xuân cuốn hút về hương, búp non tinh khiết. Trà vụ thu chú trọng vị, búp cứng cáp hơn, thu lấy dưỡng chất cho mùa đông khắc nghiệt. Mùa hoa, những nụ trà hàm tiếu được hái để sao, giữ nguyên lớp trắng tinh khiết, giúp thư giãn, an thần. Sự hòa nhịp giữa thiên nhiên, cây cối và bàn tay con người luôn tạo nên giá trị khác biệt.

Theo các chuyên gia về trà, trà Tà Xùa đặc biệt nhờ quần thể trà nằm trọn trong cánh cung núi hướng đông, quanh năm sương phủ, nhiệt độ thấp, rừng già bảo vệ. Cây trà sinh trưởng trong môi trường tự nhiên, yếu tố ánh sáng, nước, gió, mây núi đặc trưng, khiến hương vị trà có chiều sâu. So sánh tài nguyên trà trong vùng, nổi bật nhất là trà ở Bản Bẹ.

Bảo tồn nghề làm trà thủ công còn là giữ gìn bản sắc văn hóa cộng đồng. Những nỗ lực hiện nay nhằm khơi lại nghề, truyền nghề cho thế hệ trẻ, giúp họ vừa làm chủ kinh tế vừa gìn giữ văn hóa. Ở Tà Xùa, nhiều thanh thiếu niên hiện nay đã hăng hái hơn khi tham gia vào nghề. Bên cạnh khát vọng kinh tế còn là niềm say mê, muốn giữ nghề truyền thống, góp phần quảng bá bản sắc vùng cao.

Còn nhiều thách thức

Dưới ánh lửa bập bùng, bà con say sưa chuyện nhà, chuyện nghề. Việc phát triển nghề trà giúp người dân giữ chân thế hệ trẻ ở bản, phát triển du lịch trải nghiệm. Du khách đến đây, ngoài du lịch, thưởng trà còn mong muốn được chứng kiến, tham gia quy trình làm trà thủ công, cảm nhận sự gắn bó mật thiết giữa con người với thiên nhiên. Trong mùa mây bồng bềnh, ngồi bên chảo gang, nhấp ngụm trà thanh khiết A Lừ pha bằng tất cả sự hồ hởi mà cẩn trọng, khách xa nhận thấy tinh hoa nghề thủ công đang được hồi sinh, đang giữ cho những câu chuyện, đôi tay và tâm hồn bà con luôn ấm áp.

Bảo tồn, lan tỏa nghề có những thuận lợi riêng và cũng chất chứa không ít thách thức. Thuận lợi trước tiên nằm ở chính sự độc đáo của trà shan tuyết cổ thụ. Những gốc trà trăm năm tuổi, sương phủ quanh năm, tạo ra hương vị không dễ nơi nào có thể lặp lại. Đó là nền tảng để nghề sao trà truyền thống có chỗ đứng đặc biệt trong văn hóa bản địa và trong thị trường trà chất lượng cao. Bên cạnh đó, sự quan tâm ngày càng lớn của du khách, các nhà nghiên cứu và những người yêu trà như Nguyễn Thành Kiên mang lại nguồn sinh lực mới, giúp nghề được chú ý và tôn vinh trở lại.

Dù vậy, vẫn còn đó không ít khó khăn. Nghề sao trà chảo gang đòi hỏi sức bền theo năm tháng, không phải ai cũng đủ kiên nhẫn theo đuổi. Các kỹ thuật như “bắt hương”, “giữ lửa”… hay cách cảm nhận độ mềm của búp trà bằng đầu ngón tay từng suýt bị mai một theo dòng người rời núi rừng xuống phố mưu sinh. Chưa kể, biến đổi khí hậu làm mùa trà thất thường hơn, nguồn nguyên liệu lúc dồi dào, lúc cạn kiệt. Trong khi đó, thị trường hiện đại cũng chuộng sản lượng lớn, ít ai đủ thời gian chờ đợi mẻ trà sao tay kéo dài hàng giờ đồng hồ.

Đó cũng là thực tế khiến người làm nghề nhiều khi chạnh lòng. Bảo tồn nghề sao trà ở Tà Xùa vì thế trở thành câu chuyện của lòng kiên trì giữ lấy tinh hoa trong khi vẫn phải tìm cách thích ứng với nhịp sống mới. Đó là khát vọng chung của đồng bào vùng cao và cả những người đã chọn gắn bó với nơi này như quê hương thứ hai của mình.

Từ mô hình bảo tồn nghề trà, anh Kiên đã phát triển không gian nhà cộng đồng để du khách, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu có thể lưu trú, sáng tác và tìm hiểu chiều sâu văn hóa địa phương. Tại đây, nhiều lớp dạy vẽ, dạy kỹ năng miễn phí cho trẻ em địa phương được duy trì; những chương trình giao lưu văn nghệ được tổ chức, giúp khuyến khích trẻ em tự tin, gần gũi hơn với du khách.

Buổi sáng ở Tà Xùa, sương dày đặc từ đỉnh núi xuống tận mái hiên. Trước cửa tiệm trà nhỏ của anh Kiên, trẻ bản ríu rít vui đùa, tiếng cười trong veo xua tan giá lạnh. Các em cùng đưa tay vẫy chào đoàn khách đang ba-lô, túi xách rời bản để tiếp tục hành trình du lịch. Bà con dựa vào cánh cửa, tay còn vương hương trà shan tuyết sau mẻ sao sớm. Khung cảnh bình yên đến khó tả. Khi khách chuẩn bị rời đi, lời chào nhẹ tựa hơi sương nhưng đủ ấm lòng người: “Khi nào nhớ núi thì về lại. Tà Xùa vẫn ở đây mà”.

MAI LỮ

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/bao-ton-nghe-sao-tra-thu-cong-o-ta-xua-post933338.html