Bảo tồn, phát huy các làn điệu hát ru
Cao Bằng từ ngàn xưa đã được các bậc tiền nhân mệnh danh là vùng đất có 'kho tàng các làn điệu dân ca mượt mà, sâu lắng đậm tính nhân văn', hát ru của các dân tộc miền Non nước Cao Bằng nằm trong kho tàng đó. Cũng giống như người Kinh, hệ thống các làn điệu dân ca nói chung và các làn điệu hát ru của đồng bào các dân tộc nói riêng cùng các hoạt động văn hóa gắn liền với đời sống văn hóa tinh thần không thể thiếu của người dân nơi đây.
Các giá trị văn hóa của hệ thống làn điệu dân ca nói chung và các làn điệu hát ru nói riêng, bao gồm các giá trị văn hóa tinh thần, các giá trị văn hóa đó góp phần tích cực trong việc giáo dục nhân cách cho mỗi cá thể con người và xã hội như lời hát ru: “Dù con đi hết bốn phương trời/Cũng không đi hết lời mẹ ru”. Lời ru là những hình ảnh lao động ứng xử với thiên nhiên và xã hội của ông cha ta trong tiến trình xây dựng, bảo vệ, phát triển quê hương, đất nước: “Ứ noọng nòn/Nòn đắc, nòn đí/Nòn thả mé pây ly au pja/Nòn thả mé pây nà au luổm/Luổm quắm sle kin pjầu/Luổm lầu mà mẳm khẩu/Mẳm noọng ý, noọng eng/Cái khửn lẻ oóc tổng/Chồm tổng, chồm rẩy nà/Hăn tua ca lốc chả/Hăn tua mạ án slèn/Hăn tua then tói tính/Hăn tua ma quắt thang/Hăn mẻ nàng quắt chảu/Đếch tứn dạu nòn sloai/Nòn thâng ngài cỏi tứn”. Dịch: “Ru em ngủ/Em ngủ ngon, ngủ say/Ngủ chờ mẹ ra đăng lấy cá/Ngủ chờ mẹ ra ruộng bắt muỗm/Muỗm cánh cộc để bữa chiều/Muỗm cánh dài để mớm/Mớm em nhỏ, em thơ/Lớn lên thì ra đồng/Trông đồng, trông rẫy ruộng/Thấy con quạ nhổ mạ/Thấy con ngựa đếm tiền/Thấy con ong đàn tính/Thấy con chó vẫy đuôi/Thấy cô nàng búi tóc/Trẻ dậy sớm dậy muộn/Ngủ đến trưa hãy thức”.
Còn lời hát ru gắn với nghề rèn truyền thống của người Nùng An xã Phúc Sen (Quảng Hòa): “Ứ lực nìn/Nìn hâứ đắc hâứ đí/Nìn tẳng có phấu phầy/Phấu hấy rủng, hấy rường/Phấu rủng sle hón lếch/Hón mạc giáng pác slem/Hón mạc quà slam coọc/Hoán mạc phấu mạc lìu/Hón mạc nhặc tức pja/Au tu pja mà xéo/Pja hung slầy mí kẹ/Pja ý tắng lực nìn/Ứ lục ơi lục nìn”. Dịch: “Ru con ngủ/Ngủ cho say giấc nồng/Ngủ để cha nhóm lò/Thổi cho hồng, cho đượm/Thổi hồng để rèn sắt/Rèn con dao sắc nhọn/Rèn chiếc cào ba góc/Rèn chiếc xiên đánh cá/Lấy con cá về chiên/Cá to để dâng bà/Cá con chờ con ngủ/Ứ con ơi con ngủ”...
Sự tồn tại của hệ thống các làn điệu hát ru của các dân tộc ở Cao Bằng cùng với các giá trị văn hóa là những di sản minh chứng cho niềm tự hào về truyền thống văn hóa, tinh thần cần cù lao động, đoàn kết đấu tranh dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc ở vùng biên giới. Một điều đáng ngạc nhiên là trải qua biết bao biến thiên của tác động tự nhiên và tác động của các yếu tố lịch sử xã hội, nhưng các giá trị văn hóa truyền thống gắn với các làn điệu hát ru của các dân tộc vẫn được bảo lưu. Điều đó nói lên được cộng đồng các dân tộc nơi đây có ý thức cao trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa của quê hương mình, đó cũng là những biểu hiện trong bản chất, ý chí, tính cách của cộng đồng các dân tộc, những con người đã tạo dựng cuộc sống từ chính đôi bàn tay lao động và ý chí tự lực, tự cường từ bao đời nay.
Ngày nay, văn hóa đang là mối quan tâm hàng đầu của Đảng ta trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Theo văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII thì “văn hóa là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống gắn với các làn điệu hát ru của cộng đồng các dân tộc là một việc làm cần thiết để đóng góp cho sự nghiệp phát triển chung của tỉnh. Đây là công việc khó khăn, đòi hỏi sự đồng tâm, chung sức của nhiều người, nhất là phải bắt đầu từ trong nhận thức. Trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đòi hỏi mọi người phải có cái nhìn tổng thể trong việc đánh giá, nhận xét các giá trị văn hóa truyền thống, từ đó chọn lọc phát huy và phát triển.

Nghệ nhân hát ru Nông Thị Hoa ở bản Nà Pá, xã Đức Xuân (Thạch An).
Các làn điệu hát ru ở Cao Bằng còn tồn tại và phát triển vững mạnh được như ngày nay là nhờ các thế hệ nghệ nhân, quần chúng công, nông dân, người bà, người mẹ, người chị ở đây luôn có ý thức lưu giữ, sáng tạo, chắt lọc những tinh hoa để bảo tồn, phát huy và làm phong phú thêm những giá trị quý báu của các làn điệu hát ru, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, đó là những viên ngọc quý cần được bảo vệ, giữ gìn.
Trong kho tàng văn hóa dân gian của Việt Nam nói chung và Cao Bằng nói riêng, hát ru là một thể loại dân ca được ví như những viên ngọc quý nhất. Nó quý ở chỗ trong quá trình phát triển của văn hóa dân gian Việt Nam từ xưa đến nay luôn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển tiếng nói của dân tộc, phản ánh sinh hoạt của nhân dân, biểu hiện những nhận xét, những ý nghĩ của nhân dân trong công cuộc đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội, xây dựng đất nước.
Về xây dựng ngôn ngữ của các dân tộc Việt Nam nói chung, ngôn ngữ của các dân tộc ở Cao Bằng nói riêng, hát ru đóng vai trò quan trọng vì ngay từ thời chưa có chữ viết, những người bà, người mẹ, người chị đã hát ru và các bài hát ru được truyền khẩu một cách tự nhiên từ bản này đến bản khác, từ thời này sang thời khác. Trong tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam cũng như trong hát ru, chúng ta thấy chủ yếu là câu hai chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, phản ánh những điều chân thực, lời lẽ sát thực, rồi trên từng bước phát triển của hát ru, chúng ta có những bài mà nhạc điệu rất phong phú, chữ dùng rất tế nhị, biểu hiện tư tưởng sâu sắc, những giá trị nhân văn, sâu sắc.
Muốn nghiên cứu một làn điệu hát ru cổ, một điệu hát riêng biệt của một nghề, của một địa phương, chúng ta không thể nào không hiểu nghệ thuật hát ru của địa phương đó mà lại có thể nghiên cứu thấu đáo những làn điệu hát kia được. Tất cả đều được xây dựng với những ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật của hát ru, những nội dung tư tưởng và tình cảm biểu hiện trong hát ru. Các làn điệu dân ca giao duyên muốn xây dựng được với những lời ca óng chuốt, với những tinh ý mặn nồng, lành mạnh mà không dựa vào những làn điệu hát ru thì không nói lên được tính tình của đại đa số thanh niên nam, nữ Việt Nam nói chung và thanh niên nam nữ của các dân tộc ở Cao Bằng nói riêng, của những người lao động và sản xuất hăng say nhất. Cho nên dù là nghiên cứu vốn cũ của dân tộc, hay muốn xây dựng những tác phẩm nghệ thuật có tính dân tộc và tính nhân dân, chúng ta bắt buộc phải hiểu biết một phần nào về các làn điệu dân ca nói chung và hát ru nói riêng.
Qua nghiên cứu và đúc kết từ thực tiễn, để không ngừng nâng cao vị trí, vai trò của các giá trị văn hóa nhân văn của hát ru ở Cao Bằng trong thời kỳ hội nhập, cần có những nghị quyết chuyên đề, chỉ đạo các cơ quan quản lý văn hóa, giáo dục phổ thông từ tỉnh đến cơ sở về công tác nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn, phát huy, làm giàu thêm các giá trị văn hóa truyền thống của hát ru. Đưa nghệ thuật hát ru vào chương trình giáo dục tại các bậc học phổ thông, hình thành các câu lạc bộ hát ru, mở các lớp truyền dạy hát ru cho các bà mẹ, cho những người làm công tác nuôi dạy trẻ và những người yêu thích hát ru, đặc biệt là giới thiệu với khách du lịch.
Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/bao-ton-phat-huy-cac-lan-dieu-hat-ru-3177700.html