Bảo vệ cổ vật, bảo vật quốc gia: Không thể mãi thô sơ và đầy lúng túng
Sự việc Bảo vật quốc gia ngai vàng triều Nguyễn bị phá hoại ngay giữa điện Thái Hòa hôm 24-5 đã gây chấn động dư luận, đồng thời đặt ra nhiều lo ngại về công tác bảo quản, bảo tồn, bảo vệ các bảo vật quốc gia nói riêng và di sản văn hóa nói chung.
Những vụ xâm hại từ chủ ý cho đến vô thức
Vào trưa 24-5, Hồ Văn Phương Tâm (SN 1983, quê ở TP Huế, hiện trú tại quận Bình Tân, TP.HCM) có biểu hiện “loạn thần”, đã mua vé vào Đại nội rồi vào khu vực điện Thái Hòa, nơi đặt ngai vàng triều Nguyễn. Tại đây, Tâm leo qua hàng rào bảo vệ rồi ngồi lên ngai và có những lời nói, hành động ngông cuồng. Đối tượng bẻ gãy phần tựa tay bên trái ngai và đập phá làm phần tựa tay gãy ra thành nhiều mảnh.

Bảo vật quốc gia Cửu đỉnh, Kinh thành Huế
Theo hồ sơ Bảo vật quốc gia, chiếc ngai làm bằng gỗ, nặng khoảng 60kg, gồm 2 phần là ngai vàng và đế ngai, phía trên có bửu tán. Kích thước ngai dài 87cm, rộng 72cm, cao 101cm. Phần đế dài 118cm, rộng 90cm, cao 20cm. Ngai vàng triều Nguyễn có niên đại 1802-1945, được công nhận là Bảo vật quốc gia vào năm 2015. Đây là chiếc ngai được chế tác dưới thời vua Gia Long (1802-1819), sau đó được sử dụng trong suốt 143 năm tồn tại của vương triều này, kéo dài qua 13 đời vua (kết thúc là vua Bảo Đại, thoái vị năm 1945). Hình ảnh chiếc ngai tượng trưng cho vương quyền triều Nguyễn bị đập phá ngay giữa điện Thái Hòa khiến giới nghiên cứu và những người quan tâm đến lịch sử không khỏi xót xa, đồng thời đặt câu hỏi về công tác bảo tồn, bảo vệ.
Cả nước hiện có gần 294 bảo vật, nhóm hiện vật được công nhận là Bảo vật quốc gia, trong đó đa số bảo vật được lưu giữ, bảo quản, trưng bày tại các bảo tàng và di tích; chỉ chưa đến 20 bảo vật thuộc các bộ sưu tập tư nhân.
Thực ra, xót xa hay thậm chí đau đớn, phẫn nộ, thì đều là trạng thái tức thì của dư luận mỗi khi có sự cố, tổn thất nghiêm trọng nào đó. Nhưng sau đó thì sao? Mới chỉ hơn 2 tuần trước thôi, tại Khu di tích Lam Kinh (Thanh Hóa), nơi yên nghỉ của các vị vua triều Lê, lực lượng chức năng đã bắt được 2 người Trung Quốc đào bới tại lăng mộ Vua Lê Túc Tông để tìm kiếm cổ vật. Đây là hành vi đặc biệt nghiêm trọng vì không chỉ xâm hại mồ mả của người đã khuất mà còn xâm hại không gian khu di sản, vi phạm pháp luật của Việt Nam.

Tuy nhiên, hai sự việc kể trên vẫn chưa phải là hy hữu hay cá biệt. Tháng 5- 2019, một đối tượng có biểu hiện “ngáo đá” đã xông vào chùa Dâu thuộc huyện Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh) đập phá nhiều đồ thờ cúng. Chùa Dâu là ngôi chùa cổ được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam và đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt. Công an huyện Thuận Thành khi đó đã ra Quyết định trưng cầu định giá xác định thiệt hại về tài sản, đồng thời ra Quyết định tạm giữ hình sự đối tượng để tiến hành điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
Một vài ví dụ để thấy, di sản của chúng ta đang phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ xâm hại. Sự xâm hại xảy ra ngày càng nhiều, từ có chủ ý cho đến vô thức. Nhưng dù là cả một âm mưu trộm cắp (vụ đào trộm mộ Vua Lê Túc Tông) hay vô thức phá hoại (tại điện Thái Hòa, chùa Dâu) thì điều đó có nghĩa là công tác bảo vệ, bảo quản cổ vật của chúng ta đang tồn tại những lỗ hổng… “chết người”.
Bắc thang lên hỏi… ông trời
Khoảng cuối những năm 1999, đầu những năm 2000, ngành văn hóa đã tổ chức rất nhiều cuộc tọa đàm đưa ra “báo động” ở mức cao cũng như các giải pháp chống mất cắp cổ vật trong di tích, chống “chảy máu” cổ vật Việt Nam ra nước ngoài. Nhưng 10 năm sau vẫn thấy cơ quan quản lý gióng lên “tiếng chuông báo động” và hiện tại thì vẫn… “báo động”. Không chỉ ở các tỉnh, thành phố phía Bắc, Hà Nội cũng là một trong những địa phương thi thoảng lại có những vụ mất cắp cổ vật chấn động.
Điều 46, Luật Di sản Văn hóa năm 2024 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2025):
Yêu cầu bảo vệ, bảo quản di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia: Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân phải được bảo vệ, bảo quản như sau: Bảo đảm đầy đủ điều kiện về nhân lực, thiết bị kỹ thuật, công nghệ để kiểm soát môi trường bảo quản, ứng phó thiên tai, phòng chống cháy nổ, trộm cắp và nguy cơ khác có thể ảnh hưởng đến an ninh, an toàn của di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; Trường hợp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được quản lý tại bảo tàng công lập và các cơ quan, tổ chức của Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ phù hợp, ngoài yêu cầu quy định tại điểm a khoản này, phải được lưu giữ và trư̛ng bày trong kho bảo quản hoặc phòng trưng bày.
Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được cơ quan chuyên môn về văn hóa cấp tỉnh và bảo tàng công lập hướng dẫn, hỗ trợ công tác bảo vệ, bảo quản phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm phát huy giá trị. Cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, sở hữu bảo vật quốc gia phải xây dựng và triển khai phương án bảo vệ đặc biệt, bảo đảm tuyệt đối an toàn cho bảo vật quốc gia; có thiết bị kỹ thuật, công nghệ phù hợp với yêu cầu bảo quản đối với từng loại hình, chất liệu của di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được lưu giữ; có nhân lực, thiết bị kỹ thuật, công nghệ bảo đảm kiểm soát môi trường bảo quản, ứng phó thiên tai, phòng, chống cháy nổ, trộm cắp và các yếu tố khác có thể gây hư hại đến di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; có thiết bị kỹ thuật, công nghệ để bảo đảm an toàn cho người trực tiếp làm việc trong kho bảo quản di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Trong vòng chưa đầy 1 tháng, từ khoảng giữa tháng 3 cho tới nửa đầu tháng 4-2020, trên địa bàn huyện Thanh Oai đã xảy ra 4 vụ mất trộm cổ vật tại chùa Bối Khê và đình Đại Định (xã Tam Hưng), chùa Dư Dự (xã Thanh Thủy) và chùa Từ Châu (xã Liên Châu). Tổng số các cổ vật bị kẻ gian lấy tại 4 di tích này lên tới con số… 26. Cụ thể, ngày 13-3-2020, kẻ gian đột nhập vào chùa Bối Khê (thôn Song Khê, xã Tam Hưng) lấy đi pho tượng Thích Ca đản sinh bằng đồng màu đen, chiều cao khoảng 70 - 80cm. Kỳ lạ là, đây là lần thứ 3 pho tượng này bị kẻ gian lấy cắp. Những lần mất trước đều được cơ quan chức năng tìm thấy nguyên trạng và trả lại cho chùa. Tuy nhiên “quá tam ba bận”, không biết giờ này pho tượng đang ở đâu và có phép màu nào xảy ra để tượng quý có thể trở về chùa được nữa không bởi đến nay, tung tích pho tượng vẫn “bặt vô âm tín”.
Ngày 16-3-2020, đình Đại Định (thôn Đại Định, xã Tam Hưng) bị kẻ gian phá cửa lấy đi 2 bộ chấp kích (gồm 16 chiếc đặt ở gian Đại bái) cùng 2 đỉnh đồng, 2 cây nến đồng, 1 bình sứ cổ. Ngày 29-3-2020, tại chùa Dư Dự (xã Thanh Thủy), kẻ gian cắt khóa lấy trộm 1 chuông đồng, 2 bát bình hương (đặt tại Tam bảo). Đến ngày 11-4-2020, kẻ gian tiếp tục đột nhập vào chùa Từ Châu (xã Liên Châu) lấy trộm 1 chuông đồng cao 1m, đường kính 0,6m.

Đạo sắc phong ở đền Quốc Tế, xã Dị Nậu, huyện Tam Nông (Phú Thọ) đang được rao bán đấu giá trên một trang web đấu giá của Trung Quốc (ảnh chụp từ website)
Có một thực tế là, trừ khi là những hiện vật, cổ vật quá nổi tiếng thì khi triệt phá các đường dây buôn lậu cổ vật, lực lượng công an hay hải quan mới có thể phối hợp với ngành văn hóa đưa trở về các di tích. Còn những hiện vật chưa có hồ sơ cụ thể, hay nói đúng hơn chỉ ghi chung chung trong hồ sơ xếp hạng di tích (cũng có khi hiện vật quý lại nằm trong các di tích chưa được xếp hạng), thì việc tìm được đường về cũng “thiên nan vạn nan”. Chính vì thế, thời gian gần đây ngành văn hóa mới đặt ra vấn đề số hóa di sản hoặc định danh số cho mỗi cổ vật trong di tích.
Gần đây nhất, các cơ quan quản lý và những người yêu di sản cũng được phen bàng hoàng khi mạng xã hội và báo chí đưa ra những thông tin cụ thể và chi tiết về phiên đấu giá “Giấy cũ phồn hoa - Lịch sử văn hiến và bằng sắc trăm năm” của Công ty Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn (Trung Quốc). Rà lại lịch sử giao dịch được website của nhà đấu giá Trung Quốc đăng tải có cả thảy 102 đạo sắc có nguồn gốc từ Việt Nam đã, đang và sẽ đấu giá tại thời điểm tháng 4-2023. Địa phương có số lượng sắc lớn nhất có tên trên sàn đấu giá là Hà Nội với 31 đạo sắc thuộc các huyện Thạch Thất, Quốc Oai, Thường Tín, Phú Xuyên, Đan Phượng, Chương Mỹ, Ứng Hòa, Mỹ Đức và Gia Lâm (địa danh trước thuộc thôn Tế Xuyên, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh)....
Ví dụ sơ sơ để thấy, từ quá khứ cho tới hiện tại, chúng ta đã trải qua rất nhiều phen chấn động, phẫn nộ, tiếc nuối rồi cả buồn đau. Nhưng lỗ hổng trong bảo vệ, bảo quản cổ vật, bảo vật quốc gia sao cho an toàn thì “con kiến khó lòng chui qua, nhưng con voi vẫn ra vào lại được”. Có một công thức thường được áp dụng, mỗi khi xảy ra sự cố, các cơ quan quản lý thường có văn bản yêu cầu địa phương báo cáo sự việc, đồng thời cũng yêu cầu “tăng cường bảo vệ, tăng cường quản lý tránh sự việc đáng tiếc xảy ra”. Nhưng làm thế nào để “tăng cường bảo vệ” thì lại là vấn đề… siêu khó. Mấy chục năm qua, chúng ta vẫn bàn thảo, tính toán mãi mà chưa có lời giải khả thi và triệt để. Cũng có một câu hỏi mà mỗi khi sự việc đáng tiếc xảy ra, chúng ta lại hỏi: Trách nhiệm thuộc về ai? Không có câu trả lời trong trường hợp này.
Trách nhiệm ấy không thể dồn lên một cá nhân hay một cơ quan duy nhất. Đó là mỗi chuỗi liên hoàn từ người trực tiếp quản lý hiện vật đến hệ thống giám sát và bảo vệ, từ người làm chính sách đến người dân, từ lực lượng bảo vệ cơ sở đến cơ quan lập pháp, hành pháp và giáo dục quốc gia. Nhưng sâu xa hơn là một hệ thống chính sách về bảo tồn di sản còn thiếu tính cập nhật, thiếu đầu tư chiến lược, thiếu gắn kết công nghệ và thiếu sức mạnh răn đe. Chúng ta nói quá nhiều về các giải pháp, các sáng kiến phát triển công nghiệp văn hóa, nhưng những bảo vật để chúng ta có thể dựa vào đó xây dựng bản sắc riêng, sản phẩm du lịch đặc thù, hay nói đúng hơn là “nền tảng cốt lõi để phát triển công nghiệp văn hóa” thì lại đang được bảo vệ bằng những phương thức thô sơ và đầy lúng túng.
Không thể tiếp tục trì hoãn
Đó là ý kiến của PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội. Ông nhấn mạnh, cần phải chuyển từ tư duy “trưng bày” sang tư duy “bảo vệ chủ động và thông minh”. Không thể chỉ đặt hiện vật ra cho công chúng chiêm ngưỡng mà phải tạo ra cơ chế tiếp cận an toàn, vừa đảm bảo giá trị văn hóa, giáo dục, vừa giữ vững nguyên trạng vật thể. Chúng ta cần xây dựng “Chiến lược quốc gia về an toàn di sản văn hóa”, huy động các nguồn lực công - tư, áp dụng mô hình giám sát thông minh như trí tuệ nhân tạo (AI), cảm biến va chạm, nhận diện hành vi… Không thể để một bảo vật quốc gia bị hủy hoại chỉ vì thiếu một chiếc camera, một tấm kính, hay một quy trình phản ứng chuyên nghiệp. “Tôi tin rằng, sau cú sốc này, chúng ta không chỉ dừng lại ở những lời xót xa. Đây phải là thời điểm khởi đầu cho những việc cần làm ngay trong bảo vệ di sản, để những gì xảy ra với ngai vàng triều Nguyễn không bao giờ lặp lại” - PGS.TS Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh.
PGS.TS Phạm Mai Hùng - Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, nguyên Giám đốc Bảo tàng cách mạng Việt Nam cho biết, ông cảm thấy rất ngạc nhiên khi Bảo vật quốc gia ngai vàng triều Nguyễn lại có thể dễ dàng bị xâm hại bởi một đối tượng được xác định là có biểu hiện loạn thần như thế. Đây là một bài học lớn để chúng ta không thể lơ là, chủ quan, mất cảnh giác. Di sản vốn mong manh, chính vì thế cần phải tăng cường các biện pháp bảo vệ ngay lập tức, không chỉ ở Huế mà ở mọi di tích trên toàn quốc. Cần xây dựng quy chế hoạt động gắn với trách nhiệm của từng cơ quan quản lý, địa phương; xác định trách nhiệm của lãnh đạo cấp tỉnh/thành phố cho đến các ban quản lý, cùng với đó là cơ chế chặt chẽ, hệ thống cơ sở pháp lý đầy đủ và theo kịp sự phát triển của cuộc sống thì mới có thể bảo tồn lâu dài được.
Tiến sĩ Phạm Quốc Quân - thành viên Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia lại nhấn mạnh 3 nhóm vấn đề: Xây dựng đội ngũ bảo vệ chuyên nghiệp được đào tạo kỹ càng về chuyên môn, nghiệp vụ; xây dựng kịch bản chi tiết để làm sao ứng phó với mọi tình huống xấu, bất thường, có thể xảy ra; xây dựng các trang thiết bị công nghệ bảo vệ hiện đại, đảm bảo cơ chế liên thông và liên hệ trực tiếp nhanh và dễ dàng nhất.
Khi ngai vàng triều Nguyễn bị hư hỏng, cũng đã có nhiều ý kiến cho rằng, trong khi chưa có được các biện pháp trưng bày an toàn tuyệt đối thì chỉ trưng bày các bản phục dựng. PGS-TS Đặng Văn Bài - Phó Chủ tịch Hội đồng di sản văn hóa quốc gia giải thích, từ trước tới nay các bảo tàng lớn khi trưng bày bảo vật quốc gia, hiện vật quý, vẫn thường trưng bày bản gốc bởi lẽ, trưng bày bản gốc là sức mạnh của bảo tàng. Nó cũng tạo cảm xúc cho người xem. PGS.TS Đặng Văn Bài nhấn mạnh: “Nên tăng cường các biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ hiện vật để có thể trưng bày hiện vật gốc”.
Trở lại với việc tu bổ và phục chế ngai vàng triều Nguyễn, ngày 30-5, Chủ tịch UBND thành phố Huế đã ký quyết định thành lập Hội đồng đánh giá tình trạng và đề xuất phương án bảo quản, phục chế bảo vật. Chủ tịch Hội đồng sẽ do ông Nguyễn Thanh Bình - Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP đảm nhiệm. Ông Phan Thanh Hải - Giám đốc Sở VHTT TP Huế và ông Phạm Định Phong - Phó Cục trưởng Cục Di sản văn hóa (Bộ VH-TT&DL) làm Phó Chủ tịch Hội đồng.
UBND TP Huế cũng quyết định mời 9 chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa và bảo tồn, phục chế cổ vật tham gia làm thành viên Hội đồng, gồm: TS.Nguyễn Văn Đoàn - Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia; TS.Phạm Quốc Quân - nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia; bà Nguyễn Thị Hương Thơm - Trưởng phòng Bảo quản, Bảo tàng Lịch sử quốc gia; nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa - nguyên Giám đốc Sở VHTT tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là thành phố Huế); TS.Phan Tiến Dũng - Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử thành phố Huế; TS.Huỳnh Thị Anh Vân - nguyên Giám đốc Bảo tàng cổ vật cung đình Huế; nghệ nhân Nguyễn Thị Thu Hiền - chuyên gia phục chế bảo quản Công ty Tủ Thời gian; ông Hồ Hữu Hành - Giám đốc Công ty CP tu bổ di tích Huế; ông Ngô Văn Minh - Giám đốc Bảo tàng cổ vật cung đình Huế. Theo quyết định của UBND TP Huế, Hội đồng có nhiệm vụ đánh giá tình trạng ngai vàng triều Nguyễn và đề xuất phương án bảo quản, phục chế bảo vật quốc gia này.
Trước đó, ngày 29-5, Bộ VH-TT&DL đã thống nhất cho UBND TP Huế thành lập Hội đồng đánh giá tình trạng và đề xuất phương án bảo quản, phục chế bảo vật quốc gia Ngai vua triều Nguyễn.
Yêu cầu tổng rà soát bảo vật quốc gia
Ngày 29-5, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có văn bản số 2373/BVHTTDL-DSVH gửi các bộ, ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc rà soát, đánh giá và tăng cường công tác bảo vệ, bảo quản, phát huy giá trị bảo vật quốc gia.
Bảo vật quốc gia linh thú bằng đá sa thạch nguyên khối chùa Phật Tích (Bắc Ninh)
Theo đó, rà soát, đánh giá thực trạng công tác trưng bày, bảo quản, bảo vệ và các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn đối với bảo vật quốc gia đang trực tiếp quản lý, với các thông tin cụ thể: Tên bảo vật quốc gia; nơi lưu giữ; công tác trưng bày, bảo quản bảo vật quốc gia đã triển khai (từ sau khi khi có quyết định công nhận bảo vật quốc gia); phương án bảo đảm an ninh, an toàn và biện pháp ứng phó rủi ro đã triển khai (từ sau khi khi có quyết định công nhận bảo vật quốc gia); đề xuất, kiến nghị (nếu có).
Tiếp tục tăng cường công tác bảo vệ, bảo quản và phát huy giá trị bảo vật quốc gia theo định hướng:
Về công tác bảo vệ: Tổ chức xây dựng, hoàn thiện và kịp thời triển khai phươ̛ng án bảo vệ đối với từng bảo vật quốc gia, trong đó lưu ý biện pháp phòng chống trộm cắp, cháy, nổ, thiên tai và các nguy cơ gây hư hại khác để bảo đảm tuyệt đối an toàn bảo vật quốc gia. Đối với bảo vật quốc gia hiện đang được lưu giữ tại di tích hoặc thuộc sở hữu tư nhân, phải xây dựng phương án bảo vệ cụ thể đối với từng bảo vật quốc gia, được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch/Sở Văn hóa và Thể thao thông qua, được UBND cấp xã phân công tổ chức thực hiện. Kịp thời, chủ động báo cáo, thông tin tới cơ quan chủ quản và các cơ quan có liên quan khi có những diễn biến trong thực tế ảnh hưởng đến công tác bảo vệ tuyệt đối an toàn đối với bảo vật quốc gia.
Về công tác bảo quản: Ưu tiên đầu tư kinh phí cải tạo, nâng cấp công trình, hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị chuyên dụng dành cho kho bảo quản và khu vực trưng bày bảo vật quốc gia tại bảo tàng, nơi lưu giữ bảo vật quốc gia tại di tích. Việc bảo quản phải được lập thành phương án cụ thể, bảo đảm tính khoa học và theo đúng quy định của pháp luật về di sản văn hóa; quá trình thực hiện bảo quản phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc, quy trình, kỹ thuật bảo quản, đồng thời có sự phối hợp, hướng dẫn của các nhà khoa học trong lĩnh vực liên quan, các chuyên gia về bảo quản (căn cứ theo loại hình, chất liệu, tình trạng của từng bảo vật quốc gia).
Về công tác phát huy giá trị: Xây dựng và triển khai hiệu quả các chương trình riêng, với nội dung hấp dẫn, hình thức đa dạng, dễ phổ biến và tiếp cận để quảng bá về giá trị của bảo vật quốc gia tới đông đảo công chúng trong và ngoài nước. Nghiên cứu phương án trưng bày, phát huy giá trị phù hợp với tính chất, loại hình bảo vật quốc gia để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân, trên cơ sở ưu tiên bảo vệ an toàn, an ninh và giá trị của bảo vật quốc gia.
Bảo đảm an toàn đối với di vật, cổ vật có giá trị tại các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch/Sở Văn hóa và Thể thao có trách nhiệm chỉ đạo chính quyền địa phương nơi có di tích rà soát và lập Danh mục hiện vật có giá trị tại từng di tích; định kỳ hàng năm tổ chức kiểm tra, rà soát việc bảo vệ hiện vật có giá trị theo danh mục được lập. Chính quyền địa phương nơi có di tích tổ chức lập và phê duyệt phương án bảo vệ đối với từng hiện vật có giá trị; giao tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý di tích chịu trách nhiệm phối hợp với công an địa phương phân công trách nhiệm quản lý hiện vật có giá trị theo phương án bảo vệ đã được phê duyệt.
Phương án bảo vệ hiện vật có giá trị trong Danh mục hiện vật có giá trị phải đáp ứng các yêu cầu sau: Đối với hiện vật trong di tích mà không thể cất giữ hoặc trưng bày hiện vật phục chế thay thế, phương án bảo vệ hiện vật cần bảo đảm hạn chế hoặc không cho khách tham quan tiếp cận và tác động trực tiếp hiện vật; thường xuyên kiểm tra, ngăn chặn các tác nhân gây hại hiện vật; định kỳ bảo quản, bảo dưỡng hiện vật. Trường hợp hiện vật có thể cất giữ, thay thế bằng hiện vật phục chế, thì phương án cất giữ phải bảo đảm có thiết bị bảo quản hiện vật; có thiết bị báo động chống trộm cắp; vị trí bảo vệ hiện vật đã cách xa các khu vực có nguy cơ cháy nổ, ngập nước; có camera theo dõi kết nối với tổ chức, cá nhân được phân công bảo vệ hiện vật.