Bảo vệ và phát triển không gian Văn hóa Đền Hùng trong kỷ nguyên số (Kỳ 1)
Không gian văn hóa Đền Hùng - nơi hội tụ linh khí đất trời, kết tinh bản sắc Việt - từ lâu đã vượt khỏi khuôn khổ của một di tích lịch sử. Đó là biểu tượng thiêng liêng trong tâm thức dân tộc, nơi quy tụ niềm tin, lòng thành, tinh thần đoàn kết và khát vọng trường tồn của người Việt khắp năm châu. Hành trình bảo tồn và phát huy giá trị Đền Hùng suốt nhiều thập kỷ qua chính là minh chứng cho bản lĩnh văn hóa, tầm nhìn quốc gia và khát vọng hội nhập trong kỷ nguyên mới.
Kỳ 1: Hành trình gìn giữ di sản linh thiêng

Tọa lạc trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh - vùng đất địa linh được xem là "ngựa chầu, voi phục" - Khu di tích Đền Hùng là trung tâm thờ tự các Vua Hùng, những vị thủy tổ của dân tộc. Đây là nơi hội tụ những huyền thoại khai sinh dân tộc như truyện "bọc trăm trứng", bánh chưng - bánh dày… và cũng là nơi mỗi bước chân hành hương trở thành hành trình ngược dòng về với cội nguồn
Biểu tượng thiêng liêng của hồn dân tộc
Hành trình ấy khởi đầu từ Đền Hạ - nơi mẹ Âu Cơ sinh ra trăm người con, biểu tượng cho huyết thống và tinh thần gắn kết cộng đồng. Tiếp đến là Đền Trung – nơi các Vua Hùng bàn việc nước cùng Lạc hầu, Lạc tướng và truyền ngôi cho Lang Liêu – người làm nên bánh chưng, bánh dày, thể hiện đạo hiếu, tinh thần sáng tạo và triết lý âm dương. Đền Thượng trên đỉnh Nghĩa Lĩnh là nơi Vua Hùng tế cáo trời đất, cầu quốc thái dân an và dựng cột đá thề giữ nước – biểu tượng ý chí bất khuất của dân tộc. Cuối cùng là Đền Giếng – nơi công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa soi gương chải tóc, mang dấu ấn của nét đẹp thanh cao trong văn hóa Việt cổ.
Không gian thiêng liêng ấy được mở rộng và lan tỏa thông qua các công trình phụ trợ như chùa Thiên Quang, lăng Hùng Vương, giếng Ngọc, đền Mẫu Âu Cơ, đền Quốc Tổ Lạc Long Quân, cây đa cổ thụ... tạo thành tổng thể di sản đa tầng, kết hợp hài hòa giữa lịch sử – văn hóa – tín ngưỡng – sinh thái. Về giá trị vật thể, nhiều hạng mục tại Đền Hùng vẫn bảo tồn nguyên vẹn kiến trúc và hoa văn mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê thế kỷ XVII, như tam quan cổ, chuông đồng trên gác chuông. Đặc biệt, các pho tượng cổ trong chùa Thiên Quang hay họa tiết tinh xảo tại lăng Hùng Vương còn in dấu bàn tay tài hoa của nghệ nhân xưa, làm nên giá trị thẩm mỹ và lịch sử sâu sắc.

Trên đồi Công Quán, Bảo tàng Hùng Vương được thiết kế như một chiếc bánh chưng khổng lồ, mặt tiền là trống đồng tượng trưng cho bánh dày – biểu hiện tư duy “trời tròn – đất vuông” của người Việt cổ. Nơi đây lưu giữ hơn 5.000 hiện vật quý về các nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn... tạo cơ hội tiếp cận trực quan, sinh động cho thế hệ trẻ hiểu về tiến trình lịch sử dân tộc.
Năm 2009, Đền Hùng được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt Đến năm 2012, UNESCO ghi danh “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại – khẳng định sức sống trường tồn và tầm ảnh hưởng quốc tế của một tín ngưỡng dân gian đặc sắc. Không dừng lại trong nước, tín ngưỡng này đã lan tỏa ra cộng đồng người Việt toàn cầu. PGS.TS Đặng Văn Bài, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, cho biết: Hiện có hơn 50 quốc gia có nơi thờ tự Vua Hùng và tổ chức lễ Giỗ Tổ hằng năm, nhiều nơi gọi đây là “Ngày Quốc Tổ toàn cầu”. Di sản Hùng Vương, nhờ vậy, không chỉ kết nối cộng đồng trong nước mà còn quy tụ tinh thần đại đoàn kết dân tộc trên phạm vi toàn thế giới.

Đại diện Tổ chức UNESCO tại Khu vực châu Á - Thái Bình Dương trao Bằng của UNESCO công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” cho Việt Nam, tối 13/4/2013, tại Khu Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ. Nguồn: TTXVN
Không gian Đền Hùng hôm nay không còn là một điểm đến tĩnh tại, mà đang trở thành hệ sinh thái văn hóa mở, gắn kết mật thiết với đời sống cộng đồng. Toàn tỉnh Phú Thọ hiện có 345 di tích thờ Vua Hùng và các nhân vật thời Hùng Vương, cùng gần 100 làng nghề truyền thống, hệ thống các di tích phụ trợ, văn nghệ dân gian phong phú như Hát Xoan – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (UNESCO, 2017). Tiến sĩ Nguyễn Đắc Thủy, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Phú Thọ, khẳng định: “Sau khi được UNESCO vinh danh, tỉnh đã thực hiện Chương trình hành động quốc gia nhằm bảo tồn và phát huy di sản, chú trọng phục dựng không gian thực hành tín ngưỡng tại đền, miếu và các làng cổ. Đền Hùng không chỉ là nơi hành hương tâm linh, mà còn là điểm khơi nguồn ký ức và khát vọng trường tồn trong kỷ nguyên mới”.
Từ một phong tục truyền thống, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được nâng tầm thành Quốc lễ, tổ chức định kỳ vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hằng năm. Đây là dịp hàng triệu người Việt trên mọi miền đất nước và kiều bào năm châu cùng hướng về cội nguồn dân tộc, thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn". Nếu như vào những năm 1980, lễ hội chỉ đón vài vạn lượt khách, thì hiện nay, lượng người hành hương về Đền Hùng đạt trung bình từ 6 đến 7 triệu lượt mỗi năm. Riêng năm 2025, ước tính số khách lên tới khoảng 8 triệu lượt, cho thấy sức sống mãnh liệt của di sản và vị thế thiêng liêng của Đền Hùng trong tâm thức cộng đồng người Việt.
Sự chuyển mình ấy được người dân cảm nhận rõ rệt. Ông Nguyễn Đình Thắng (65 tuổi, xã Hy Cương), người gắn bó cả đời bên chân núi Nghĩa Lĩnh, xúc động chia sẻ: “Tôi chứng kiến từng bước thay đổi của khu di tích: đồi trọc ngày xưa giờ xanh mát, khang trang. Mỗi lần lên dâng lễ tổ tiên, tôi lại nhớ lời Bác dạy: ‘Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước’”. Câu chuyện của ông không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn là minh chứng cho thành quả trong việc kết hợp hài hòa giữa bảo tồn, phát triển và hiện đại hóa di sản.
Gìn giữ mạch thiêng Đền Hùng qua các thế hệ
Từ sau ngày đất nước thống nhất, nhiều thế hệ cán bộ, nhà nghiên cứu và người dân đã âm thầm góp sức làm nên diện mạo ngày nay của Khu di tích lịch sử Đền Hùng. Trong số đó, Tiến sĩ Phạm Bá Khiêm, nguyên Trưởng Ban Quản lý Khu di tích, nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Phú Thọ, là người đặt nền móng cho việc nghiên cứu, phục dựng giá trị văn hóa Đền Hùng từ thập niên 1970. Bắt đầu từ luận án tốt nghiệp năm 1977, ông dành gần nửa thế kỷ điền dã khắp trung du Bắc Bộ, sưu tầm thần tích, ghi chép nghi lễ, khảo cứu kiến trúc, phong tục. Ông là người đầu tiên đề xuất phục dựng lễ rước kiệu, khôi phục lễ vật truyền thống và có đóng góp quan trọng vào việc lập hồ sơ trình UNESCO công nhận tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Ông nhớ lại: “Những năm 70, Đền Hùng vắng lặng, chỉ vài cụ cao niên khăn áo chỉnh tề lên dâng hương ngày Giỗ Tổ. Không khí thiêng vẫn còn, nhưng mạch tín ngưỡng thì mờ nhạt. Không ai hình dung một ngày nơi này sẽ trở thành di sản văn hóa thế giới.” Với ông, việc UNESCO ghi danh không chỉ là một dấu mốc, mà là kết tinh của niềm tin âm ỉ, bền bỉ suốt nghìn năm: “Dù ở đâu, theo tín ngưỡng nào, người Việt khắp năm châu vẫn có chung một điểm – thờ Vua Hùng như tổ tiên của mình.”

Dòng chảy thiêng liêng ấy được nuôi dưỡng hàng ngày bởi những nghi lễ định kỳ vào mùng Một và ngày Rằm hàng tháng do cán bộ Khu di tích thực hiện, thể hiện đạo lý tri ân tiên tổ. Bà Phạm Thị Hoàng Oanh, Phó Giám đốc Khu di tích lịch sử Đền Hùng, chia sẻ: “Đây không chỉ là nghi lễ dâng hương mà còn là dịp tuần rừng, rà soát từng công trình, lối đi, cây xanh... để kịp chỉnh trang, tu sửa...

... Mỗi dịp hành lễ gắn liền với hành động cụ thể như trồng cây xanh, thả cá để cân bằng sinh thái. Chúng tôi quan niệm, phải hành động từ tâm, làm gương từ mỗi việc nhỏ trước khi vận động xã hội cùng giữ gìn cội nguồn.”
Âm thầm và bền bỉ hơn, còn có các cụ Từ ở xã Hy Cương, nơi bao trọn đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Họ là những người âm thầm gìn giữ nghi lễ qua bao thế hệ. Họ không chỉ thực hành nghi lễ, mà còn là biểu tượng sống động của sự kế thừa tín ngưỡng quốc gia. Cụ Nguyễn Cao Đức, một cụ Từ cao niên, xúc động nói sau lễ đầu tháng: “Dâng hương tại Đền Hùng là vinh dự thiêng liêng. Mỗi lần hành lễ, tôi như được trở về nguồn cội và tự nhắc mình phải gìn giữ, truyền lại phong tục này cho mai sau.” Ông Phạm Tiến Đạt, Giám đốc Khu di tích lịch sử Đền Hùng cho biết: “Để trở thành cụ Từ, phải là người địa phương gương mẫu, am hiểu thần tích, sắc phong, luật tục và có khả năng truyền dạy. Trước khi chính thức được công nhận, họ phải trải qua nhiều năm làm Phó cụ Từ để trau dồi nghi thức, lễ tiết, hiểu tường tận luật tục. Sau đó, phải vượt qua kỳ thi sát hạch nghiêm ngặt do hội đồng chuyên môn và cộng đồng địa phương tổ chức – như một minh chứng cho sự kế thừa chính danh và chuẩn mực của tín ngưỡng quốc gia.” Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, Viện trưởng Viện nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa và Du lịch gọi họ là “cẩm nang sống” – những người thắp lửa linh thiêng bằng từng lời khấn, nén hương dâng Tổ.

...Mỗi dịp hành lễ gắn liền với hành động cụ thể như trồng cây xanh, thả cá để cân bằng sinh thái. Chúng tôi quan niệm, phải hành động từ tâm, làm gương từ mỗi việc nhỏ trước khi vận động xã hội cùng giữ gìn cội nguồn.”
Không chỉ là tâm huyết cá nhân, hành trình bảo tồn di sản Đền Hùng còn là kết quả của một tầm nhìn chiến lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng hai lần về thăm nơi này: lần đầu vào ngày 19/9/1954 và lần thứ hai vào ngày 19/8/1962. Trong chuyến thăm, Người căn dặn: “Phải làm cho nơi đây thành công viên lịch sử – nơi giáo dục truyền thống yêu nước.” Lời căn dặn ấy đã trở thành kim chỉ nam. Hàng loạt chiến lược, chính sách đầu tư dài hạn được ban hành nhằm bảo tồn giá trị gốc, đồng thời phát triển Đền Hùng thành trung tâm văn hóa – tín ngưỡng – du lịch cấp quốc gia và quốc tế.
Giám đốc Khu di tích Phạm Tiến Đạt kể: “Trước những năm 1990, đất nước còn nhiều khó khăn, khu di tích khi ấy còn đơn sơ: đường sá lầy lội, đền thờ nhỏ hẹp, cơ sở hạ tầng gần như chưa có, lễ hội chỉ gói gọn trong phạm vi làng xã. Nhưng giữa muôn vàn thiếu thốn, chúng tôi đều mang một niềm tin không đổi: gìn giữ Đền Hùng là gìn giữ linh hồn dân tộc – nơi neo giữ căn cốt Việt giữa dòng chảy lịch sử.”
Cột mốc quan trọng mở ra một giai đoạn phát triển mới là năm 1994, khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn Khu di tích Đền Hùng – đặt nền móng cho những bước đi bài bản. Tiếp theo là Quyết định số 552/QĐ-TTg năm 2017, và đặc biệt là Quyết định số 2260/QĐ-TTg năm 2021, theo đó tổng diện tích khu di tích được mở rộng lên 845ha, bao gồm cả vùng lõi các đền thờ và vùng đệm là rừng quốc gia. Không dừng lại ở quy hoạch trên giấy, tỉnh Phú Thọ đã cụ thể hóa chủ trương bằng những kế hoạch triển khai thường niên, phân cấp rõ trách nhiệm từ tỉnh đến xã, từ Ban Quản lý đến cộng đồng dân cư.
Đặc biệt, từ năm 2010 đến nay, Chính phủ đã xây dựng cơ chế tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương luân phiên giữa các tỉnh, thành phố trong cả nước. Theo đó: năm chẵn, nghi lễ cấp quốc gia do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì; năm lẻ, các tỉnh, thành phố thay phiên tổ chức, mỗi địa phương đóng góp lễ vật, nghi lễ truyền thống đặc trưng. Cách làm này không chỉ tạo sự lan tỏa sâu rộng mà còn góp phần chia sẻ nguồn lực, trách nhiệm, khơi dậy tinh thần đại đoàn kết dân tộc trong hành trình tri ân tổ tiên.

Những thay đổi rõ nét đã hiện hữu từng ngày. Đường lên đền được lát đá chống trơn. Hệ thống chiếu sáng sinh thái len lỏi dưới tán cây. Ao sen Đền Giếng, hồ Mai An Tiêm được cải tạo, cây bản địa như lim xanh, trò nâu, hải đường phủ kín triền đồi. Hệ thống xử lý nước thải, bãi đỗ xe, đường nội bộ đều được đầu tư hiện đại. Sau mỗi đổi thay là dấu ấn của những con người tận tụy.

Ông Phạm Quốc Khánh, Phó Giám đốc Thường trực Ban Quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng, trước khi nghỉ hưu đã khởi xướng phong trào “Mỗi người hành hương, một mầm xanh”. Từ sáng kiến này, gần 200 cán bộ của Khu di tích đã cùng nhau trồng hàng nghìn cây bản địa, vận động thêm các doanh nghiệp, đoàn thể, tình nguyện viên cùng chung tay góp sức. “Trồng cây ở Đền Hùng không chỉ làm đẹp cảnh quan, mà còn là lời hứa với tổ tiên về một tương lai bền vững,” ông Khánh chia sẻ



Dọc đường lên đền, chị Nguyễn Thị Hoa, Phó trưởng phòng Quản lý môi trường, hơn 20 năm gắn bó hơn với công việc tỉa hoa, nhặt rác, chăm cây chia sẻ: “Nhiều người nghĩ công việc này vất vả, nhưng tôi thấy hạnh phúc khi mỗi sáng nhìn thấy đền sạch hơn, cây cối tươi hơn, hoa nở đón khách về với tổ tiên.” Cạnh đó, hướng dẫn viên trẻ Phạm Huyền Trang tâm sự với du khách: “Được phục vụ tại Đền Hùng và truyền cảm hứng cho du khách là niềm tự hào với em. Em mong có thêm nhiều tour trải nghiệm để người trẻ hiểu sâu sắc hơn về tín ngưỡng cội nguồn – cũng là cách mỗi người góp phần nhỏ gìn giữ di sản.”
Không gian Đền Hùng hôm nay mang diện mạo khang trang, sinh động nhờ sự chung tay mạnh mẽ của cộng đồng, doanh nghiệp và chính quyền các cấp. Từ phong trào “Mỗi người hành hương, một mầm xanh” đến các mô hình xã hội hóa cải tạo cảnh quan, vệ sinh môi trường, xây dựng hạ tầng phụ trợ, tất cả đều góp phần làm mới vùng đất linh thiêng. Trong đó, “vườn lễ” – công trình phối hợp giữa Ban Quản lý, HTX giống cây trồng Vân Phú và người dân sở tại – không chỉ cung cấp cây lễ, tạo bóng mát mà còn mở ra không gian giáo dục sinh thái, trải nghiệm văn hóa, thể hiện rõ tinh thần “gìn giữ di sản từ gốc rễ”.
Ông Nguyễn Đắc Thủy, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ, cho biết: “Đến nay đã có hơn 345 di tích thờ Hùng Vương trên địa bàn tỉnh và hơn 1.400 điểm thờ tự trên cả nước. Đặc biệt, nhiều ngôi đền ở cộng đồng người Việt xa xứ vẫn đang hành lễ bằng nước thiêng, hương trầm, phục trang truyền thống được gửi từ Đền Hùng về – như một sự kết nối linh thiêng không biên giới.”

Không gian Đền Hùng hôm nay không còn là điểm đến tĩnh tại, mà đang chuyển mình thành trung tâm văn hóa sống động: tour đêm “Linh thiêng nguồn cội”, hát Xoan cổ, trò chơi dân gian, trải nghiệm gói bánh chưng bánh giầy, không gian check-in văn hóa... Những đổi thay ấy là minh chứng cho sự kết nối giữa truyền thống và hiện đại, giữa ý Đảng, lòng dân và sức mạnh xã hội hóa – đặt nền móng cho tầm nhìn Đền Hùng trở thành công viên lịch sử – văn hóa quốc gia trong kỷ nguyên mới.
Tuy vậy, để di sản sống được cùng thời đại, để mỗi lượt khách hành hương trở thành một cơ hội lan tỏa văn hóa và sinh kế, Đền Hùng vẫn cần thêm những cú huých chiến lược. Bởi bài toán “nhiều khách – ít sinh kế” vẫn là khoảng trống chưa dễ lấp đầy…