Bất thường trong khu lăng mộ vua chúa Minh triều: Xuất hiện lăng mộ của 1 thái giám, hoàng đế Thanh triều Khang Hi cũng phải cung kính vái lạy
Rốt cuộc tại sao 1 thái giám lại được chôn cất ngay trong quần thể vua chúa? Đây là việc rất hiếm trong lịch sử Trung Hoa xưa.
Thái giám chính là người "khuyết thiếu, không hoàn hảo" trong thời cổ đại, họ không thể được chôn cất trong Hoàng lăng nghiêm trang, thần thánh. Vậy mà trong Hoàng lăng nhà Minh lại có một lăng mộ của Thái giám, tên ông là Vương Thừa Ân.
Vương Thừa Ân là ai?
Chuyện về Vương Thừa Ân là một câu chuyện rất cảm động.
Thời nhà Minh có thể coi như là triều đại phát triển thịnh vượng của hoạn quan, trong vương triều này có rất nhiều vị Thái giám nổi tiếng như Ngụy Trung Hiền, Lưu Cẩn…, hơn thế thái giám nhà Minh đa số đều đi con đường giống Triệu Cao của nhà Tần, đều là những thái giám hại nước hại dân, sự sụp đổ của nhà Minh cũng có liên quan không nhỏ với những thái giám này.
Ban đầu, Vương Thừa Ân đi theo thái giám Tào HoáThuần, đây cũng coi như thầy giỏi có trò hay.
Tào Hóa Thuần là người biết điều và khôn khéo, làm việc hiệu quả chặt chẽ, nên rất được Hoàng đế Sùng Trinh tin tưởng coi trọng, cũng vì vậy nên Tào Hóa Thuần cũng giúp vua Sùng Trinh làm nhiều việc quan trọng.
Sau này khi Tào Hóa Thuần vì sức khỏe suy yếu phải từ chức, nhờ có sự tiến cử của ông nên Vương Thừa Ân bắt đầu bước lên con đường của riêng mình, dĩ nhiên không phụ sự kỳ vọng của Tào Hóa Thuần, Sùng Trinh hoàng đế đã đề bạt Vương Thừa Ân lên vị trí Thái giám ghi chép ở Tư Lễ giám.
Trong chế độ quan lại thời nhà Minh, vị trí Thái giám ghi chép ở Tư Lễ giám là vị trí rất được kính trọng, trong tay có quyền phê hồng tấu chương, cho nên có thể thấy Sùng Trinh hoàng đế rất tin tưởng Vương Thừa Ân.
Vương Thừa Ân trở thành thái giám thân tín của Sùng Trinh hoàng đế khi chỉ mới 27 tuổi, trong tay nắm đại quyền trong triều, có thể hô mưa gọi gió, chỉ cần Vương Thừa Ân nói mấy câu trước mặt Hoàng đế thì quan đại thần cũng gặp tai họa. Nhưng Vương Thừa Ân giỏi ở chỗ ông không phạm vào vết xe đổ của những người đi trước.
Trong lịch sử đã có biết bao người sau khi lên được địa vị cao rồi cũng bất giác mà biến mất, tuy thân là thái giám nhưng Vương Thừa Ân vẫn đối xử khiêm tốn lễ độ với người khác, các đại thần trong triều cũng vì vậy mà khen ngợi ông.
Quan trọng hơn là, Vương Thừa Ân có tấm lòng trung quân, ông luôn một lòng trung thành tận tâm với Sùng Trinh Đế, cũng chính vì phẩm chất này nên ông được người đời sau tôn trọng.
Sự thay đổi của lịch sử
Vào năm Sùng Trinh thứ 17, Lý Tự Thành xưng đế ở Tây An, sau đó Lý Tự Thành dẫn theo quân Đại Thuận đi theo đường Sơn Tây quét qua nhiều châu phủ, chỉ trong vòng 2 tháng đã đánh tới thành Bắc Kinh.
Việc Lý Tự Thành tiến quân thần tốc như vậy vượt xa dự liệu của mọi người, thậm chí cả Lý Tự Thành cũng không ngờ tới, Sùng Trinh Đế lại càng không thể nghĩ đến. Quân đội của Lý Tự Thành có thể tiến quân thần tốc, thế như chẻ tre như vậy không phải do đội quân này mạnh mà là do quân thủ thành của nhà Minh quá yếu, không chống trả được, đa phần toàn là gió chiều nào che chiều ấy.
Sùng Trinh Đế cũng đã từng nhận được thư nghị hòa của Lý Tự Thành, ý chính là nếu Sùng Trinh Đế chấp thuận để Lý Tự Thành làm Thiểm Tây Vương, đồng thời chi ra trăm vạn lượng bạc làm quân phí, Lý Tự Thành sẽ chủ động lui quân về Hà Nam, đồng thời giúp triều Minh tiêu diệt quân Thanh.
Lá thư nghị hòa này làm dấy lên sự phản đối kịch liệt của quần thần trong triều, sau khi thương thảo với quan viên thì lá thứ nghị hòa này đã bị từ chối, Sùng Trinh Đế khi ấy muốn triệu Ngô Tam Quế về kinh thành, nhưng lại bị Thủ phụ Trần Diễn hết sức ngăn cản, sau đó thì thế cục hoàn toàn mất khống chế.
Khi quân đội của Lý Tự Thành bao vây tấn công Bắc Kinh, các vị đại thần trước đó ra sức phản đối phong Lý Tự Thành làm Thiểm Tây Vương nay không dám hé răng nửa lời, quân thủ thành Bắc Kinh mất khả năng chống trả, trong sách sử còn dùng cụm từ "binh tốt lác đác" để miêu tả hoàn cảnh khi ấy, Sùng Trinh Đế bấy giờ coi như thấy rõ bộ mặt thật của bá quan văn võ trong triều.
Cửa Tây Trực, cửa Bình Tắc, cửa Đức Thắng của kinh thành Bắc Kinh đều chịu sự tấn công mạnh mẽ của quân đội Lý Tự Thành, bấy giờ thang dây công thành của quân địch đã mắc được lên tường thành, kinh thành đối mặt với nguy cơ một sớm một chiều. Trước tình thế nguy cấp, Sùng Trinh Đế đã trao trách nhiệm phòng thủ Bắc Kinh cho Vương Thừa Ân.
Đảm nhiệm trọng trách vua giao
Vương Thừa Ân quả thực chưa từng phụ lòng tin tưởng của Sùng Trinh Đế, ông tự mình lên tường thành chỉ huy quân đội kháng địch, dũng cảm giết địch, thậm chí còn đích thân khai pháo bắn chết nhiều binh sĩ của quân Đại Thuận.
Nhưng con đê dài cũng sập vì tổ kiến, khi Vương Thừa Ân cố gắng nỗ lực tử thủ bảo vệ thành trì thì những người khác lại lén lút bỏ chạy, chẳng khác gì đem thành trì trao tận tay cho giặc.
Mấy giờ sau, buổi chầu cuối cùng của nhà Minh diễn ra, khi Sùng Trinh Đế lòng đầy lo lắng bước vào điện lại phát hiện trên điện trống không, bá quan văn võ không một ai đến chầu, Sùng Trinh Đế đáy lòng nặng trĩu, ông biết vương triều nhà Minh đã tận.
Sùng Trinh Đế biết kiếp nạn này khó thoát, vì để bảo vệ thể diện Hoàng gia, ông đã đưa ra một quyết định tàn nhẫn, ông ban chết cho Chu Hoàng hậu và phi tần, tự mình giết Công chúa Chiêu Nhân, lệnh cho người cải trang cho ba vị Hoàng tử rồi đưa chạy trốn khỏi Hoàng cung, giúp Hoàng thất nhà Minh lưu lại hương hỏa và hi vọng.
Một Sùng Trinh Đế đã gần như điên dại, thất tha thất thểu đi về hướng Môi Sơn sau Tử Cấm Thành, bên cạnh chỉ có Vương Thừa Ân theo cùng. Ông tìm một cành cây cong, đứng dưới cây bi thảm than rằng: "Thần tử hại ta!"
Câu nói này quả thực đã phản ánh lại tâm trạng của Sùng Trinh Đế lúc bấy giờ, khi ông hoàn toàn thất vọng với tất cả bá quan văn võ trong triều.
Sùng Trinh Đế để trần chân trái, tự vẫn mà chết, khi ông tuẫn thân vong quốc mới chỉ 33 tuổi.
Vương Thừa Ân sau khi tiễn đưa Sùng Trinh Đế đoạn đường cuối cùng lại không chọn cách chạy trốn, mà phẫn uất tự vẫn theo Sùng Trinh Đế dưới cây.
Sau khi Lý Tự Thành tấn công vào Tử Cấm Thành, việc đầu tiên ông ta làm là tìm kiếm Sùng Trinh Đế, xác định xem Sùng Trinh Đế đã chết hay chưa, nhưng Lý Tự Thành lật tung cả thành mà vẫn không thấy tung tích Sùng Trinh Đế, chẳng lẽ Sùng Trinh Đế chạy trốn không thành?
Thế nên, Lý Tự Thành ra thông báo treo thưởng, nếu người nào tìm thấy thi thể của Sùng Trinh Đế sẽ ban thưởng hậu hĩnh. Lý Tự Thành chờ đợi trong lo lắng, đến ngày thứ ba thì nhận được tin phát hiện thi thể của Sùng Trinh Đế trong núi Cảnh Sơn (tên gọi ngày nay của núi Môi Sơn).
Sau đó, Lý Tự Thành mang thi thể của Sùng Trinh Đế về an táng cạnh phần mộ của phi tần của ông, đổi tên thành Tư Lăng. Trên thực tế, việc làm này không thỏa đáng vì suy cho cùng Sùng Trinh Đế cũng là hoàng đế Minh triều. Không chỉ vậy, Lý Tự Thành còn mang thi thể của Vương Thừa Ân an táng cạnh Sùng Trinh Đế.
Quân Thanh sau khi nắm quyền cai trị thiên hạ, vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh là Thuận Trị Hoàng đế. Việc thay đổi triều đại đều sẽ gặp phải sự phản đối, thời kỳ đầu thành lập, nhà Thanh gặp phải làn sóng phản đối kịch liệt, để bảo vệ quyền thống trị, Thuận Trị Hoàng đế phải nghĩ cách để làm giảm bớt làn sóng phản đối này.
Khẩu hiệu của nhà Thanh là "Ngưỡng thừa thiên mệnh, điếu dân phạt tội", cách tốt nhất để xoa dịu sự phản đối của quý tộc nhà Minh là an táng thật long trọng cho vị Hoàng đế tiền triều, vì thế nên Sùng Trinh Hoàng đế được phát tang an táng.
Đồng thời, mộ phần của Vương Thừa Ân cũng được vua Thuận Trị rất coi trọng, ông an táng mộ phần Vương Thừa Ân bên ngoài Tư Lăng của Sùng Trinh Đế, để ông có thể tiếp tục bảo vệ chủ của mình như trước đây.
Mộ phần của Vương Thừa Ân cũng được xây dựng khang trang, mộ phần có ba phiến bia đá, tấm phía Đông khắc "Vương Thừa Ân chi mộ". Điều khiến người ta kinh ngạc là phần chân đế của phiến bia đá này, bên trên được khắc một bức phù điêu sống động như thật, đề tài trên bức phù điêu là "Long mã phụ thư" và "Tê ngưu vọng nguyệt" được lựa chọn kỹ lưỡng.
Phiến bia đá thứ hai có khắc bia văn hơn 800 chữ, nội dung được đích thân vua Thuận Trị đề bút. Phiến bia đá thứ 3 – cũng là tấm đặt gần phần mộ nhất được khắc bia văn 240 chữ, nội dung cũng do vua Thuận Trị đích thân soạn thảo, mục đích nhằm để ca ngợi Vương Thừa Ân "trung tâm với chủ, hi sinh quên mình", đồng thời bên trên có khắc bốn chữ "ngự chế tinh trung".
Thời Hoàng đế Khang Hi trị vì, khi tổ chức bái tế tại Tư Lăng của nhà Minh cũng bái tế cả lăng mộ của Vương Thừa Ân.
Việc Hoàng đế tế bái một thái giám của tiền triều là việc cực kỳ hiếm gặp trong lịch sử, mà nhà Thanh làm như thế cũng đều có lí do của nó.
Hoàng đế nhà Thanh an táng vua Sùng Trinh, tế bái Hoàng lăng của nhà Minh là để xoa dịu sự thù địch của dân chúng nhà Minh với nhà Thanh, còn việc duy trì đãi ngộ kính trọng với Vương Thừa Ân là để tuyên dương hình mẫu tiêu biểu của "thần tử trung quân", hi vọng thần tử, quan viên nhà Thanh cũng sẽ trung thành với triều đại như Vương Thừa Ân trung thành với Sùng Trinh Đế.
Vương Thừa Ân tuy chỉ là một thái giám, nhưng trong ông toát ra phẩm chất trung thành, không sợ kẻ thù khiến người khác khâm phục, bất cứ một triều đại hay quốc gia nào cũng đều cần những người trung thành như vậy.
Câu chuyện vẫn thân bi tráng của Vương Thừa Ân khiến người ta phải suy nghĩ, xứng đáng là tấm gương để noi theo học tập.