Bên bán kiện bên mua đòi thêm tiền thuế vì khai 2 giá khi giao dịch bất động sản
Việc khai hai giá khi giao dịch mua bán bất động sản tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho cả bên bán lẫn bên mua.
Pháp luật về thuế có quy định nguyên tắc khi phát sinh thu nhập thì phải đóng thuế thu nhập cá nhân với những khoản thu chịu thuế. Nhiều cảnh báo về rủi ro pháp lý khi mua bán bất động sản nhưng khai hai giá đã được đưa ra. Dù vậy, vì cái lợi trước mắt, nhiều người vẫn cố tình thực hiện.
Một bản án phúc thẩm về tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền (được công bố trên Cổng thông tin điện tử của TAND Tối cao) thể hiện bên bán đất đã khởi kiện bên mua để đòi thêm tiền thuế thu nhập cá nhân vì bị truy thu thuế sau khi kê khai giá công chứng thấp hơn giá giao dịch thực tế.
Bị truy thu thuế vì khai 2 giá
Theo bản án nêu trên, ông Q, bà T (bên bán) thỏa thuận chuyển nhượng cho ông H, bà L (bên mua) hai lô đất, giá chuyển nhượng là 12 tỉ đồng. Theo thỏa thuận, bên mua sẽ có trách nhiệm nộp mọi khoản thuế, phí liên quan đến việc chuyển nhượng.
Do đó, ông H, bà L yêu cầu ghi giá chuyển nhượng là 800 triệu đồng. Sau đó, ông H, bà L đã nộp các khoản thuế, phí liên quan đến việc chuyển nhượng để thực hiện thủ tục sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Cơ quan thuế có thể truy thu số tiền thuế phải nộp khi phát hiện khai 2 giá trong giao dịch mua bán bất động sản. Ảnh: XUÂN HOÁT
Tuy nhiên, sau khi đăng bộ sang tên ông H, bà L không thanh toán số tiền còn thiếu là 7 tỉ đồng nên bên bán đã khởi kiện. Kết thúc vụ kiện này hai cấp tòa đều xác định giá trị chuyển nhượng thực tế là 12 tỉ đồng.
Từ kết quả của vụ kiện này Chi cục thuế đã tiến hành xác định lại lệ phí trước bạ, thuế thu nhập cá nhân trong giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Q, bà T chuyển nhượng cho ông H, bà L. Từ đó, cơ quan thuế đã quyết định truy thu buộc ông Q, bà T nộp bổ sung 193,6 triệu đồng tiền thuế thu nhập cá nhân và nộp phạt vi phạm hành chính 193,5 triệu đồng vì sử dụng chứng từ, tài liệu không phản ánh đúng giá trị giao dịch thực tế. Tổng số tiền mà ông Q, bà T phải nộp là 387,2 triệu đồng.
Do đó, ông Q, bà T khởi kiện yêu ông H, bà L phải trả cho mình 387,2 triệu đồng.
Phía bị đơn (bên mua) thì cho rằng việc ghi giá chuyển nhượng trên hợp đồng công chứng 800 triệu đồng là do nguyên đơn (bên bán) yêu cầu để giảm số tiền thuế phải nộp. Bị đơn đã thực hiện theo đúng thỏa thuận (đóng tiền thuế, phí thay cho nguyên đơn) nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
Nhận định của tòa án
Xét xử sơ thẩm, HĐXX đã chấp nhận một phần yêu cầu của bên bán, buộc bên mua phải liên đới trả lại cho nguyên đơn 193,6 triệu đồng tiền truy thu thuế thu nhập cá nhân. Không chấp nhận yêu cầu hoàn trả tiền phạt vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, ở cấp phúc thẩm, HĐXX đã sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận các yêu cầu của bên bán.
Theo HĐXX cấp phúc thẩm, Điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân và Điều 3 Nghị định số 65/2013 quy định khoản thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản phải chịu thuế thu nhập cá nhân là khoản thu nhập nhận được từ việc chuyển nhượng bất động sản bao gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất; thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Theo Luật thuế thu nhập cá nhân, thông thường bên chịu thuế là bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất, còn bên mua không phải chịu khoản thuế này. Tuy nhiên, khi thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nếu các bên trong hợp đồng thỏa thuận bên nhận chuyển nhượng (bên mua) phải thực hiện nghĩa vụ tài chính về thuế thì khoản thuế thu nhập cá nhân bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải nộp.
Nguyên đơn cho rằng các bên đã thỏa thuận tại Điều 4 của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nội dung hai bên đã thỏa thuận với nhau về trách nhiệm nộp thuế, lệ phí liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Theo Hợp đồng do ông H, bà L là bên nhận chuyển nhượng chịu trách nhiệm nộp nên đòi lại số tiền trên.
Xét thấy sự thỏa thuận này là sự tự nguyện giữa các bên, khi ký kết hợp đồng các bên đều có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, khi ký kết các bên đều biết quyền lợi, nghĩa vụ của mình và bị đơn đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo đúng thỏa thuận tại hợp đồng cũng như phần xác định lại giá trị chuyển nhượng để đóng thuế thu nhập cá nhân và các loại thuế phí khác liên quan đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên.
Hơn nữa, các bên cũng không thỏa thuận ai là người phải chịu nghĩa vụ đóng thế đối với số tiền chuyển nhượng ngoài hợp đồng. Như vậy, có cơ sở xác định bị đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ về phí chuyển nhượng cũng như việc bị đơn nhận nộp thay thuế thu nhập cá nhân đối với bên chuyển nhượng.
Do đó, nguyên đơn là người có thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản phải chịu thuế thu nhập cá nhân phần thỏa thuận ngoài hợp đồng. Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn thanh toán lại cho nguyên đơn tiền thuế thu nhập cá nhân bị truy thu là không đúng. Vì vậy, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Nhiều rủi ro khi khai 2 giá
Việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng bất động sản với giá trị kê khai thấp hơn giá trị thực tế là hành vi trốn đóng nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các bên.
Đối với bên bán có thể đối diện với những rủi ro như: Bị cơ quan thuế truy thu toàn bộ số thuế thu nhập cá nhân 2% tính trên giá trị chênh lệch (giá thực tế trừ giá đã khai). Kèm theo đó là xử phạt hành hành theo Nghị định 125/2020, mức phạt cao nhất của hành vi trốn thuế này là phạt ba lần số tiền thuế kê khai thiếu.
Rủi ro lớn nhất là có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế nếu số tiền trốn thuế từ 100 triệu đồng trở lên, hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính mà còn tái phạm.
Rủi ro tiếp theo là về tranh chấp hợp đồng, trong trường hợp bên mua chưa thanh toán hết số tiền chênh lệch (phần tiền ngoài hợp đồng công chứng) mà phát sinh tranh chấp, bên bán sẽ gặp bất lợi lớn. Tòa án sẽ căn cứ dựa trên số tiền được ghi rõ trong hợp đồng công chứng, trừ khi các bên có chứng cứ khác chứng minh số tiền giao dịch khác với giá ghi trong hợp đồng công chứng.
Đối với bên mua, trong nhiều trường hợp sẽ gặp rủi ro khi bị tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu do giả tạo (ghi giá thấp nhằm che giấu một giao dịch khác là giao dịch với giá thực tế).
Hậu quả khi hợp đồng vô hiệu, hai bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Bên mua sẽ chỉ được pháp luật bảo vệ để nhận lại số tiền ghi trên hợp đồng công chứng, chứ không phải toàn bộ số tiền thực tế đã trả. Nếu bên bán không tự nguyện trả lại phần chênh lệch, bên mua có nguy cơ mất khoản tiền này.
Tiếp đến là gây rắc rối về thủ tục hành chính khi mà cơ quan thuế có quyền yêu cầu giải trình, yêu cầu kê khai lại giá, hoặc từ chối thực hiện thủ tục nếu phát hiện giá kê khai quá thấp so với giá thị trường hoặc dữ liệu của cơ quan thuế. Điều này gây chậm trễ, phiền phức cho bên mua trong quá trình làm thủ tục sang tên.
Luật sư LÊ THÀNH CÔNG, Đoàn Luật sư TP.HCM











