Bên kia vùng lõm
Tôi bỗng nhận ra một nghịch lý, là 'ốc đảo' rộng khoảng 2.000 ha đang thiếu nước ấy vì ở trên cao, nhưng người dân sống trên đó lại đang là 'vùng lõm' trong thu nhập.

Hồ thủy lợi Sông Lũy
Điệp khúc… chia nước
Ai đó nói đứng ở đây có thể vẽ bản đồ quả không sai. Sau khi vượt quá nửa tuyến đường ven kênh Tà Mú - Suối Măng - Cây Cà, nhưng thực tế là đi trên những sườn đồi nối tiếp từ vùng Bắc Bình ra Tuy Phong (cũ), chúng tôi dừng ở km 37. Nơi đây có thể thấy nhiều tuyến đường chạy song song. Trên này là đường kênh được đánh dấu bằng vệt trắng uốn lượn giữa điệp trùng núi rừng xanh ngắt. Dưới kia là đường sắt có thêm nhà ga Phong Phú. Bên cạnh là quốc lộ 1A, đường cao tốc đoạn Vĩnh Hảo - Phan Thiết và không lâu nữa sẽ có đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam án chừng ở phía xa kia. Tất cả như chấm phá sự nhộn nhịp trên 1 không gian mênh mông với những tên gọi gợi ký ức về một vùng đất khát mà ngay hiện tại còn đâu đó các dải cát trắng xen những cánh đồng...
Các lão nông người Kinh, Chăm, Nùng sinh sống ở đây mà tôi gặp, kể rời rạc nhưng chung quy, những cánh đồng trên xuất hiện là cả câu chuyện dài về nước. Sự kiện nhớ nhất là năm 1995, tại suối Bà Nao, chính quyền 2 xã phải đứng ra chia nước cho dân sản xuất để tránh xung đột, ẩu đả. Nơi đây khát không chỉ bởi khí hậu thiếu mưa, thừa nắng mà còn bởi vì ở vùng giáp ranh của 2 huyện. Những công trình thủy lợi của Tuy Phong lúc ấy khó ngược dòng chuyển nước về xã Hòa Minh. Còn những công trình thủy lợi của Bắc Bình cũng thế, không thể tiếp nước đến vùng cuối Phan Hòa bấy giờ, ngay cả khi có hồ Cà Giây vào năm 2000. Bức xúc của dân tăng cùng sự tủi thân ở vùng giáp ranh…

Đào ao trải bạt tích nước để tưới thanh long của Thương binh Ông Vân Còn
Nghe nói, sau nhiều lần kiến nghị, tranh thủ từ nguồn vốn Trung ương, tỉnh… cuối cùng, tuyến kênh Úy Thay - Đá Giá, dù không nằm trong diện tích thiết kế tưới của hồ Cà Giây nhưng đã xuất hiện với chiều dài 16,3 km. Nối tiếp sau đó, tuyến kênh Đá Giá - Hòa Minh dài 14,8 km cũng được xây dựng, trong đó vốn huyện làm khoảng 7 km. “Cả 1 vùng háo hức như những ngày này, dân nhận tiền mừng Quốc khánh 80 năm vậy” - 1 lão nông nói, với lập luận bản thân là người trong cuộc. Rằng lúc ấy, dân hiến đất làm kênh, làm đường, góp sức đào kênh, vỡ hoang ruộng rộn ràng. Thời gian sau đó, nhờ có thêm nguồn nước xả sau của Thủy điện Đại Ninh, tuyến kênh nối dài hơn 31 km trên đã đưa nước về và những cánh đồng rộng mênh mông xuất hiện. Đó là 2.000 ha thuộc khu tưới của tuyến kênh Úy Thay - Đá Giá và 1.000 ha khác được tưới bổ sung thuộc xã Hải Ninh và xã Bắc Bình bây giờ. Đó là 1.500 ha thuộc xã Phan Hòa, huyện Bắc Bình (nay là xã Bắc Bình) và xã Hòa Minh, huyện Tuy Phong (nay là xã Phan Rí Cửa) được tưới từ tuyến kênh Đá Giá - Hòa Minh. Ở đoạn cuối tuyến kênh này, khi chưa có nguồn tiếp từ hồ Sông Lũy nên hay thiếu nước vào vụ đông xuân, chính quyền tiếp tục đứng ra phân chia xã nào sẽ sản xuất, xã nào lùi lại chờ năm sau.
“Cứ như có dớp ấy” - một lão nông nói thế và kể tiếp. Đến tuyến kênh Tà Mú - Suối Măng - Cây Cà, người dân lại cầu cứu đến chính quyền, khi nghe nói đã mở thông nước vào cuối năm 2024, nước chảy qua 42 km nhưng đến nay, nước từ Bắc Bình vẫn chưa tiếp vào kênh của hồ Lòng Sông. Những hộ dân kiến nghị nhiều đều có đất không xa tuyến kênh Úy Thay - Đá Giá - Hòa Minh là mấy nhưng vì ở trên cao nên nước không lên được. Không ít đâu, vùng trên cao ấy lên đến 2.000 ha, kéo dài về hướng biển.

Kênh dẫn nước công trình thủy lợi Cà Giây
Ốc đảo và… lõm
Từ nơi có thể vẽ bản đồ trên, chúng tôi đi hết chiều dài tuyến kênh ra quốc lộ 1A rồi vòng lại vào xóm 7, xã Phan Rí Cửa. Ở đây, có thể thấy điểm dừng khi nãy, dù xa tít và vườn nhà dân kề bên là của cựu chiến binh chiến trường K có tên rất lạ: Ông Vân Còn. Người con út của ông Còn là Ông Vân Nhiều nói hãnh diện: “Ba là thương binh 1/4 được chính quyền lựa chọn tham gia dự Lễ duyệt binh kỷ niệm 80 năm mừng Quốc khánh ở Hà Nội chưa về”.
Khi hỏi về nước, về cây trồng, Nhiều đều biết tường tận. Vì ba Nhiều đã gắn bó vùng đất thiếu nước này 30 năm, ngang ngửa tuổi của Nhiều, chỉ vì sức hút ban đầu từ chiếc bàu không lớn có tên: Bàu Đề và hi vọng từ khi vùng dưới thấp có nước thủy lợi. Theo đó, Nhiều lớn lên, cảm nhận thất bát nhiều hơn được mùa. Càng về sau này, Nhiều thấy ba hí hoáy viết đơn nhiều hơn, lúc nào đi họp đều kiến nghị xây dựng trạm bơm nước. Rồi thở dài... Nhưng vẫn tiếp tục hành trình kiếm nước qua khoan 4 giếng sâu đến 60 - 100 m, đào ao trải bạt tích nước. Đồng thời, hình thành mô hình sản xuất, chăn nuôi khép kín để cải tạo đất, tiết giảm chi phí. Như hiện tại, nuôi 17 con bò lấy phân bón gốc; trồng đậu phộng cải tạo đất và cả trồng lúa để lấy rơm tủ gốc 2.200 trụ thanh long…
“Có nước để trồng lúa à?” - Tôi ngạc nhiên hỏi. Nhiều xoay người chỉ tay về phía xa, nơi ấy là cánh đồng trong vùng tưới của tuyến kênh Úy Thay - Đá Giá - Hòa Minh, tuyến kênh chạy song song với kênh Tà Mú - Suối Măng - Cây Cà. Nhưng ruộng nhà Nhiều cao hơn mặt bằng cánh đồng ấy cả mét nên mùa nào cũng bơm nước. Nếu nước có kịp cho lúa trổ bông thì được mùa, còn không là mất mùa. Như bây giờ, cánh đồng ấy đã thu hoạch xong vụ hè thu, nhưng nhà Nhiều lúa hè thu đang đứng ngẩn ngơ… nhìn vườn thanh long trên cao đến vài mét nữa. Một khung cảnh thấy rõ ở đây là có vùng lõm xanh um nhờ nước nhưng cũng có vùng lồi như ốc đảo thiếu nước.
Thế nhưng ở trên ốc đảo thiếu nước, bỏ hoang đất có tiếng này, nhà Nhiều trụ lại bền bỉ nhất, trong đó có may mắn. Trước đây, trong cơn lốc giá thanh long tăng, cuốn bao nhà quyết định dăm cành ở đây với hăm hở ban đầu. Vì nghĩ có nước kênh Úy Thay - Đá Giá - Hòa Minh ở dưới kia, khoan giếng lấy nước trồng thanh long trên này sẽ dễ hơn. Nhưng sự thật không như vậy. Giếng khoan không có nước. Giếng có thì nước nhiễm mặn… Chi phí trồng, chăm sóc tăng vọt nhưng thanh long chậm lớn, chậm trái. Có trái thì giá không cao. Bao nhà nợ ngân hàng đầm đìa. Có người lo nghĩ bị đột quỵ mà xuất phát ban đầu do hoang tưởng về nước…
Nhưng cuối năm 2024, khi tuyến kênh Tà Mú - Suối Măng - Cây Cà thông nước đã giải bài toán hoang tưởng trên. Vì nước từ Thủy điện Đại Ninh, lưu vực Sông Lũy sẽ ra đây, đâu chỉ cho sản xuất nông nghiệp mà còn cung cấp cho các nhà máy, cơ sở, ngay cả những trang trại điện mặt trời cũng cần nước để lau tấm pin. Nhưng niềm vui chưa kịp loan ra thì nhận thông tin vì kênh đất, chỉ rộng 4 m, lại nằm trên sườn đồi nên nước chảy tới đâu đã ngấm hết xuống vùng đất khát bên dưới. Tương tự như các ao nước ở vùng đất xóm 7 này phải trải bạt như nuôi tôm vậy thì mới tránh thất thoát. Thế nên, ngay cuối năm 2024, HĐND tỉnh Bình Thuận cũ đã thông qua nghị quyết về chủ trương lập kế hoạch đầu tư công trung hạn và danh mục các dự án trọng điểm của tỉnh giai đoạn 2026 - 2030, trong đó có dự án kiên cố hóa tuyến kênh trên.
Nước thất thoát ấy khiến dải đất kề bên tuyến kênh Tà Mú - Suối Măng - Cây Cà, nay thuộc xã Tuy Phong, vốn lâu nay chỉ sản xuất cây ngắn ngày vào mùa mưa hoặc bỏ hoang thì nay đã chuyển sang trồng táo trong nhà lưới với diện tích ngày một tăng. Cả 1 vùng trắng bồng bềnh nhà lưới như mây sà xuống đồng bằng. Cuộc chuyển đổi cơ cấu cây trồng rất nhanh, được xem là hiệu quả này, vì cây táo gặp nước, trái lớn, giòn ngọt hơn nơi khác. Nhiều người dân ở đây nhờ vậy có thêm thu nhập. Tôi bỗng nhận ra một nghịch lý là “ốc đảo” thiếu nước ấy vì ở trên cao như vùng lồi nhưng người dân sống trên đó lại đang là “vùng lõm” trong thu nhập. Bao giờ nơi ấy được xoay chiều có nước?
Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/ben-kia-vung-lom-390358.html