Bệnh nhân ung thư vú chuyển giai đoạn muộn vì 'ngại' dịch COVID-19

Được chẩn đoán mắc ung thư vú giai đoạn IIIa từ khoảng tháng 6/2021, tuy nhiên người phụ nữ 45 tuổi (Hải Dương) không điều trị. 6 tháng sau, chị đi khám lại thì bệnh đã chuyển sang giai đoạn cuối.

Hình ảnh Xquang vú tháng 1/2022: Hình ảnh khối u lớn vú phải 1/2 trên kích thuocs 4,6x3,0x5,0 cm, nốt lân cận 1,1 cm, bờ không đều, thâm nhiễm mỡ trước da vú. Ảnh: BVCC

Hình ảnh Xquang vú tháng 1/2022: Hình ảnh khối u lớn vú phải 1/2 trên kích thuocs 4,6x3,0x5,0 cm, nốt lân cận 1,1 cm, bờ không đều, thâm nhiễm mỡ trước da vú. Ảnh: BVCC

Theo các bác sĩ tại Trung tâm Y học hạt nhân & Ung bướu, BV Bạch Mai, ung thư vú và ung thư cổ tử cung là hai loại ung thư phổ biến gây tử vong hàng đầu ở nữ giới. Theo tổ chức ghi nhận ung thư thế giới GLOBOCAN 2020, hàng năm, trên thế giới có hơn 2,2 triệu người được chẩn đoán mắc ung thư vú và khoảng người 680.000 người tử vong vì căn bệnh này. Tại Việt Nam, ung thư vú chiếm 25,8% bệnh ung thư ở nữ giới với hơn 21.555 ca mắc mới và 9.345 ca tử vong.

Ung thư vú là một trong số các loại ung thư có khả năng sàng lọc phát hiện từ khi bệnh ở giai đoạn rất sớm và có tỷ lệ điều trị khỏi bệnh rất cao nếu được phát hiện và điều trị ở giai đoạn này. Ngược lại nếu chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn muộn thì việc điều trị sẽ khó khăn, chi phí điều trị cao và hiệu quả sẽ thấp hơn nhiều. Việc sàng lọc phát hiện sớm ung thư vú được thực hiện rất nhanh chóng và với chi phí sàng lọc rất thấp. Người bệnh được sàng lọc bằng phương pháp cơ bản qua thăm khám lâm sàng, siêu âm vú, chụp Xquang tuyến vú và kết hợp xét nghiệm tế bào học, sinh thiết kim nhỏ. Thông thường thời gian tiến hành sàng lọc cơ bản sẽ có kết quả trong vòng 1- 2 giờ.

Trong thời gian qua, Bệnh viện Bạch Mai liên tục ghi nhận nhiều trường hợp người bệnh đến khám và phát hiện ung thư vú khi bệnh tiến triển sang giai đoạn muộn vì e ngại và sợ không đi khám, sàng lọc để được chẩn đoán và điều trị kịp thời khi bệnh ở giai đoạn sớm gây ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị.

Trường hợp bệnh nhân V. T. O. 45 tuổi, quê ở Hải Dương là một ví dụ. Bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị khi bệnh chuyển giai đoạn muộn do điều kiện gia đình và do e ngại dịch bệnh Covid-19.

Tự sờ thấy có u ở vú phải từ trước đó, nhưng đến tháng 6/2021 chị O. mới đi khám tại Bệnh viện K Trung ương. Tại đây, chị được chẩn đoán xác định là ung thư vú phải di căn hạch nách phải, giai đoạn IIIa. Nhưng do tình hình dịch bệnh Covid-19 và điều kiện gia đình thời điểm đó nên chị đã trì hoãn không đi khám nên không được điều trị bệnh ung thư.

Đến tháng 1/2022, thấy u vú phải, vùng nách phải sưng to nhiều, đau vùng vú, nách phải, cột sống nên chị đến khám tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai.

Tại đây, bệnh nhân được thăm khám lâm sàng và phát hiện thấy có tổn thương khối u lớn 1/2 trên vú phải, thâm nhiễm da vùng u, kém di động kèm theo có nhiều hạch hố nách phải, chắc, kém di động. Bệnh nhân được làm các xét nghiệm đánh giá khối u vú nguyên phát, kiểm tra toàn thân đánh giá giai đoạn bệnh để lập kế hoạch điều trị bằng siêu âm, X-quang và chụp PET/CT toàn thân, xét nghiệm máu…,ThS. BSCK II Thiều Thị Hằng, Trung tâm Y học hạt nhân & Ung bướu cho biết.

Bệnh nhân được chẩn đoán bị ung thư vú phải di căn hạch nách phải, xương (T4cN2M1), giai đoạn IV.

Như vậy sau một thời gian trì hoãn không đến khám bệnh, bệnh ung thư vú của bệnh nhân đã tiến triển, khối u vú to lên về kích thước, hạch nách lớn nhanh và có tổn thương di căn xương (di căn xa). Bệnh chuyển sang giai đoạn IV (giai đoạn cuối).

Ở giai đoạn bệnh này, bệnh nhân sẽ được điều trị bằng hóa trị toàn thân trước và đánh giá sau các liệu trình để quyết định phương pháp điều trị tiếp theo.

Ngọc Nga

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/benh-nhan-ung-thu-vu-chuyen-giai-doan-muon-vi-ngai-dich-covid-19-post435234.html