Bí ẩn loại 'thần dược' giúp phát xít Đức chinh chiến và sụp đổ - Kỳ 1
Hitler chắc chắn không phải là người duy nhất sử dụng Pervitin. Trong thời kỳ đó, tất cả mọi người ở Đức, từ những người lính nơi tiền tuyến đến những bà nội trợ mãn kinh đều ngấu nghiến những viên 'thần dược' này như kẹo.
SỨC KHỎE LẠ THƯỜNG CỦA HITLER

Quân đội Đức Quốc xã đã sử dụng Pervitin để chiến đấu qua những đêm dài khó khăn, nhưng cuối cùng họ phải trả giá. Pervitin được gọi một cách dân dã là "panzerschokolade" hay "sô cô la xe tăng" vì người sáng tạo ra nó đã bắt chước một loại bao bì sô cô la để tiếp thị loại thuốc này. Ảnh: Wikimedia Commons
Ngay trước khi gặp Benito Mussolini vào mùa hè năm 1943, trùm độc tài Đức Quốc xã Adolf Hitler đã cảm thấy trong người ốm yếu. Tuy nhiên, hắn không thể bỏ lỡ cuộc họp với một nhà lãnh đạo khác trong phe Trục, vì vậy bác sĩ riêng của Hitler đã tiêm cho "Führer" (Lãnh tụ - danh từ mà Hitler dùng để gọi chính mình) loại thuốc có tên là Eukodal - một loại thuốc phiện bán tổng hợp có thành phần oxycodone - để giúp tên trùm phát xít tỉnh táo hơn.
Viên bác sĩ đã chấp nhận rủi ro đáng kể khi làm như vậy. Nhiều người tin rằng Hitler đã phải vật lộn với chứng nghiện nhiều loại thuốc. Nhưng trong trường hợp này, việc tiêm thuốc có vẻ hợp lý: Hitler bị táo bón co thắt và dạ dày của hắn đau dữ dội đến mức không thể ngủ được. Ngay sau mũi tiêm đầu tiên, Hitler đã thấy khỏe khoắn và ra lệnh tiêm thêm một mũi nữa. Sau đó, hắn rời đi họp với sự hăng hái của một người lính bằng một nửa tuổi mình.
Tại cuộc họp với Mussolini, Hitler được cho là đã nói thao thao hàng giờ liền mà không ngừng nghỉ. Nhà độc tài người Ý - người ngồi đó thỉnh thoảng xoa bóp lưng, thấm trán bằng khăn tay và thở dài --- được cho là đã hy vọng thuyết phục Hitler để Ý rút khỏi cuộc chiến. Nhưng ông ta không bao giờ có cơ hội.

Adolf Hitler đã thúc đẩy tuyên truyền chống ma túy trước khi trở thành một kẻ nghiện. Ảnh: Wikimedia Commons
Đây chỉ là một trong những câu chuyện về việc Hitler sử dụng ma túy, được cho là bao gồm thuốc an thần, testosterone, thuốc phiện, tinh dịch bò đực (được cho là thuốc kích thích tình dục) và các chất kích thích như Pervitin, loại "thuốc can đảm" làm từ ma túy đá.
Hitler chắc chắn không phải là người duy nhất sử dụng Pervitin. Trong thời gian đó, tất cả mọi người ở Đức, từ những người lính nơi tiền tuyến đến những bà nội trợ mãn kinh đều ngấu nghiến những viên thuốc này như kẹo.
Việc sử dụng ma túy tràn lan không phải là điều mới mẻ ở đất nước này. Đức vốn đã sa lầy vào tình trạng sử dụng ma túy trên diện rộng, cho đến khi Hitler lên nắm quyền và nổi tiếng chống ma túy. Nhưng khi Hitler thay đổi chính sách và trở thành một kẻ nghiện, số phận tương tự dường như đã xảy ra với nhiều người ở đất nước hắn ta.
Vào đầu Thế chiến II, những người lính Đức đã sử dụng Pervitin để giúp họ có thể chiến đấu với sức mạnh, sự bền bỉ và đã chinh phục phần lớn châu Âu. Tuy nhiên, “sự màu nhiệm” cuối cùng đã biến mất. Vào cuối chiến tranh, khi sự kiêu ngạo đã khiến Đức Quốc xã tránh né thực tế, những người lính của họ đã sử dụng các loại thuốc như Pervitin chỉ để sống sót.
Cuốn sách “Blitzed: Drugs in Nazi Germany” (Cơn say của Đế chế: Ma túy trong nước Đức Quốc xã) của tác giả Norman Ohler đã đề cập đến vai trò của ma túy trong Đệ tam Đế chế, và những tuyên bố của ông thật đáng kinh ngạc.
Chất độc trong huyết quản của Đức Quốc xã

Những người sử dụng ma túy mua cocaine trên đường phố Berlin vào năm 1924. Ảnh: Cục Lưu trữ Liên bang Đức
Mặc dù sau này đã đưa nước Đức vào thời kỳ sử dụng ma túy nặng nề, ban đầu Adolf Hitler từng sử dụng một nền tảng chống ma túy để giành quyền kiểm soát đất nước.
Nền tảng này là một phần không thể thiếu của một chiến dịch rộng lớn hơn được xây dựng dựa trên luận điệu chống lại chế độ đương thời. Vào thời điểm đó, chế độ cầm quyền là Cộng hòa Weimar - cái tên không chính thức mà Hitler đã đặt cho chế độ Đức cai trị từ năm 1919 đến 1933 - đã trở nên phụ thuộc về kinh tế vào ma túy, cụ thể là cocaine và heroin.
Để bạn có thể hình dung được quy mô của sự phụ thuộc này, theo tác giả Ohler, Đức chịu trách nhiệm sản xuất 40% morphine toàn cầu trong giai đoạn 1925-1930. Cocaine cũng là một câu chuyện tương tự. Nhìn chung, với nền kinh tế bị tàn phá nặng nề bởi Thế chiến thứ nhất, Đức đã trở thành quốc gia buôn bán ma túy của thế giới.
Adolf Hitler không thích điều đó. Theo những tin đồn, hắn ta được cho là không bao giờ hút thuốc nữa sau khi ném một gói thuốc lá xuống sông vào cuối Thế chiến thứ nhất và kiên quyết không uống rượu.

Một áp phích phim Đức năm 1927 cảnh báo về mối nguy hiểm của cocaine, thuốc phiện và morphine. Ảnh: Pinterest
Khi Đức Quốc xã nắm quyền kiểm soát nước Đức vào năm 1933, chúng bắt đầu mở rộng triết lý “không chất độc” của Hitler ra khắp đất nước. Tuy nhiên, Đức Quốc xã đã phải nỗ lực rất nhiều.
Mô tả tình hình đất nước vào thời điểm Hitler lên nắm quyền, tác giả người Đức Klaus Mann đã viết: “Đêm ở Berlin, ôi trời ơi, thế giới chưa từng chứng kiến điều gì như thế này! Chúng ta từng có một đội quân hùng mạnh, giờ thì chúng ta chỉ còn những sự đồi trụy ghê gớm!”
Vì vậy, Đức Quốc xã đã làm những gì chúng làm tốt nhất, và đã kết hợp các nỗ lực chống ma túy với thông lệ đặc trưng của chúng là cáo buộc những người mà chúng không ưa - đặc biệt là những người gốc Do Thái - là những kẻ đâm sau lưng nước Đức. Chế độ phát xít sử dụng công cụ tuyên truyền để gán tội những người nghiện với những nhóm bị thanh trừng, cùng với các luật lệ hà khắc, trong đó luật ban đầu mà Reichstag (Quốc hội Đức) thông qua vào năm 1933 cho phép giam giữ những người nghiện.
Đức Quốc xã cũng không đếm xỉa đến quy tắc bảo mật y tế và buộc các bác sĩ phải tố bất kỳ ai có đơn thuốc gây nghiện kéo dài hơn hai tuần cho nhà chức trách. Chế độ phát xít cũng hạn chế quyền tiếp cận của công dân và thậm chí giam giữ những người "không mong muốn" vì sử dụng ma túy, đưa họ đến các trại tập trung. Những người tái phạm chính sách chống ma túy của Đức Quốc xã cũng phải chịu chung số phận.
Nhìn bề ngoài thì sự thay đổi quy mô lớn của nước Đức khỏi tình trạng lệ thuộc vào ma túy tràn lan có vẻ giống như một phép màu do Đức Quốc xã gây ra. Tuy nhiên nhiên, "phép màu" này chỉ kéo dài cho đến khi Adolf Hitler lần đầu tiên nếm thử Pervitin.