Bí ẩn vụ tai nạn tàu quân y 'Armenia' của Liên Xô
Mãi đến tháng 3-2020, các mảnh vỡ của tàu 'Armenia' mới được phát hiện bởi Tổ hợp nước sâu dưới sự điều khiển của các chuyên gia Trung tâm nghiên cứu dưới nước thuộc Hội địa lý Nga. Con tàu nằm cách bờ 18 hải lý ở độ sâu 1.500 mét.
Từ tàu thủy động cơ đốt trong “Armenia”
Giữa những năm 1920, nước Nga Xô viết đã khôi phục mạnh mẽ ngành đóng tàu, trong đó có tàu dân dụng. Phòng thiết kế của Nhà máy Baltic đã xây dựng dự án tàu thủy chạy diesel loại “Adzharia”. Năm 1927-1928, có 6 chiếc chở khách được đóng với tên gọi đặt theo tên của các nước cộng hòa và cộng hòa tự trị thuộc Liên Xô là: “Adzharia”, “Abkhazia”, “Armenia”, “Ukraine”, “Crimea” và “Gruzia”. Hầu hết đều được đóng tại Nhà máy đóng tàu Baltic ở thành phố Leningrad (nay là Saint Petersburg), chỉ có có hai chiếc cuối cùng được đóng tại thành phố Kiel của Đức. Những chiếc tàu thủy chạy diesel hoạt động ở khu vực Biển Đen và phục vụ các tuyến nối giữa cảng Ukraine, Crimea và Kavkaz. Với tốc nhanh, những con tàu này được mệnh danh là “ngựa phi”.
Tàu “Armenia” được đưa vào vận hành năm 1928. Đây là loại tàu thủy động cơ đốt trong hai ống khói có lượng choán nước là 5.770 tấn, chiều dài hơn 107 mét, chiều rộng 15,5 mét, có thể chạy với vận tốc 14,5 hải lý. Đội thủy thủ gần 100 người, trên khoang có thể chứa gần 1.000 hành khách. Ngoài ra, tàu cũng có thể chở 1.000 tấn hàng, có nghĩa, đây là tàu chở hàng – chở khách đa năng. Tàu “Armenia” do ngành vận tải đường thủy Biển Đen quản lý vận hành và chạy theo tuyến Odessa – Batumi – Odessa.
Đến tàu quân y
Khi bắt đầu nổ ra cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, tình hình trên Biển Đen đòi hỏi phải thay đổi công năng của những chú “ngựa phi”. Tàu “Armenia” được chuyển đổi thành tàu vận tải – quân y: Các nhà hàng trên tàu trở thành khoang sơ cứu và phẫu thuật, phòng hút thuốc lá thành hiệu thuốc, trong các buồng được bố trí thêm những chiếc giường tầng. Đầu tháng 8-1941, toàn bộ hạng mục công việc trên tàu “Armenia” đã hoàn tất, và tàu được biên chế cho Hạm đội Biển Đen. Thuyền trưởng của tàu là Vladimir Plaushevsky, đại phó là Nikolai Znayunenko, lãnh đạo đội ngũ y tế là bác sĩ chính của Bệnh viện đường sắt Odessa Pyotr Dmitrievsky. Đội tàu quân y lúc này gồm có 96 người, cũng như 9 bác sĩ, 29 y tá và 75 nhân viên vệ sinh.
Trong thời gian bảo vệ Odessa, tàu đã thực hiện 15 chuyến và vận chuyển từ thành phố này đến bờ biển Kavkaz hơn 16.000 người. Ngày cũng như đêm, trên tàu luôn có đội ngũ y tế làm nhiệm vụ phẫu thuật và sơ cứu. Người bị thương rất nhiều. Tàu không những vận chuyển người bị thương, mà còn cả những người lánh nạn chạy trốn chiến tranh. Thậm chí, các thành viên đội tàu bố trí cho mọi người ở trong các buồng của mình trên tàu.
Trên các boong tàu “Armenia” được đánh dấu chữ thập lớn bằng sơn màu đỏ tươi để dễ nhìn thấy từ không trung. Trên cột chính của tàu có lá cờ trắng in hình Hội chữ Thập đỏ quốc tế. Tuy nhiên, quân Đức Quốc xã trên thực tế đã không tuân thủ các điều khoản của Hiệp định Geneva và Hiệp định The Hague ở phía Đông. Tháng 7-1941, quân phát-xít Hitler đã gây thiệt hại cho hai tàu quân y “Kotovsky” và “ Chekhov”. Tàu “Adzharia” bị máy bay Đức tấn công lửa bao trùm ngay tại Odessa. Tháng 8 năm đó, tàu “Kuban” cũng chịu số phận tương tự. Chính vì vậy, trên tàu “Armenia” có lắp 4 đại pháo đa năng bán tự động 45mm và 4 súng liên thanh. Ngoài ra, tàu luôn có đoàn hộ tống đi theo bảo vệ.
Sơ tánkhỏiSevastopol
Mùa thu năm 1941, tại Crimea xảy ra tình trạng hỗn loạn. Đến Sevastopol lúc này là các đơn vị bại trận thuộc Tập đoàn quân Primorye của Hồng quân Liên Xô. Khi đó không ai có thể nghĩ rằng, thành phố sẽ anh dũng đứng vững trong 250 ngày. Người ta vội vã sơ tán khỏi Sevastopol tất cả những gì cần và không cần thiết. Chẳng hạn, các bệnh viện tại chính thành phố này chật kín người bị thương, nhưng có ai đó đã ra lệnh sơ tán đội ngũ y tế. Người ta thậm chí còn muốn đưa đi sở chỉ huy của Hạm đội tàu vốn được chuẩn bị tốt và bố trí phòng kiên cố. Chỉ có những hành động cương quyết của cấp phó phụ trách phòng thủ trên bộ, Thiếu tướng Petrov mới giúp chấm dứt tình trạng hỗn loạn. Sevastopol trở thành một pháo đài thực sự, trên đường tiến vào thành phố này bắt đầu nổ ra những trận đánh ngoan cường.
Ngày 4-11-1941, tàu “Armenia” rời thành phố Tuapse đến Sevastopol. Chiếc tàu neo tại cảng nội địa, tiếp nhận người bị thương và người tị nạn. Tình hình lúc đó rất đang lo ngại, bởi bất kỳ lúc nào cũng có thể xuất hiện máy bay của không quân Đức. Phần lớn các tàu chiến của Hạm đội tàu theo mệnh lệnh của Đô đốc Oktyabrsky đã ra khơi, trong đó có cả tuần dương hạm “Molotov”. Trên chiếc tuần dương này có trang bị trạm vô tuyến định vị tàu duy nhất trong Hạm đội. Ngoài tàu “Armenia” ra, trên vịnh Karantynna còn xếp hàng lên cho tàu vận tải “Belostok”, còn tại bến cảng Morzavod là tàu “Crimea”. Công việc xếp tải hàng hóa lên tàu diễn ra liên lục cả ngày đêm.
Người ra đưa lên tàu người bị thương, đội ngũ y tế và quản trị hành chính của Bệnh viện hải quân Sevastopol (đây là bệnh viện lớn nhất của Hạm đội Biển Đen), do bác sĩ chính của bệnh viện, bác sĩ quân y Semen Kagan đứng đầu. Trên tàu cũng có Bệnh viện hải quân số 2 và Bệnh viện cơ sở Nikolaevsky, Nhà kho quân y số 280, Phòng xét nghiệm an toàn vệ sinh dịch tễ, Tổ quân y số 5, Bệnh viện thuộc nhà điều dưỡng Yalta. Tiếp nhận lên tàu “Armenia” một phần đội ngũ y tế của Tập đoàn quân số 51 và Tập đoàn quân Primorye, cũng như người dân thành phố Sevastopol. Theo những số liệu khác nhau, tàu đã tiếp nhận từ 5.000 đến 10.000 người.
Ban đầu, thuyền trưởng Plaushevsky nhận chỉ thị ra khơi vào lúc 19 giờ ngày 6-11-1941 và thực hiện hành trình đến thành phố Tuapse. Tháp tùng có tàu săn ngầm cỡ nhỏ “041” của Thượng úy Kulashov. Khi không có đoàn hộ tống đủ mạnh thì chỉ có ban đêm mới là phương án bảo vệ tốt nhất cho tàu cỡ lớn. Ban ngày, tàu chở khách – chở hàng lớn mà gần như không có hệ thống phòng không, tàu và máy bay hộ tống, thì sẽ trở thành mục tiêu dễ dàng nhất cho máy bay ném bom và máy bay phóng ngư lôi của quân Đức Quốc xã. Lúc bấy giờ, không quân Đức là lực lượng làm chủ bầu trời. Mệnh lệnh đầu tiên đã tạo cho tàu cơ hội tốt để rời Crimea đến thành phố Tuapse. Chính vì vậy, thuyền trưởng Plaushevsky đã rất phẫn nộ với mệnh lệnh thứ hai: Phải ra khơi lúc 17 giờ, lúc trời còn sáng! Bởi mệnh lệnh đó có thể khiến hàng nghìn người mất mạng.
Tiếp sau đó còn có thêm hai mệnh lệnh nguy hiểm nữa. Theo mệnh lệnh đầu tiên, tàu “Armenia” phải ghé vào Balaklava để đón nhân viên của Bộ dân ủy Nội vụ Liên Xô, những người bị thương và đội ngũ y tế. Tàu cũng tiếp nhận những lô hàng bí mật (hiện vẫn không có số liệu cho biết tại Balaklava đã xếp lên tàu loại hàng gì). Có ý kiến cho rằng, người ta đưa lên tàu những bức tranh và vật phẩm có giá trị của viện bảo tàng. Còn một giả thuyết khác nữa cho rằng, đây là những tài liệu và vàng. Tàu “Armenia” đã neo đậu tại Balaklava trong vài giờ đồng hồ. Lúc đó, tàu vẫn có cơ hội để rời đi khi trời còn tối.
Tuy nhiên, thuyền trưởng Plaushevsky nhận một mệnh lệnh mới rất nguy hiểm. Theo đó, ông phải rời tàu đi Yalta và tiếp nhận tại đó những cán bộ Đảng, nhân viên Bộ dân ủy Nội vụ và một số bệnh viện. Vào lúc 2 giờ sáng ngày 7-11-1941, tàu “Armenia” cập cảng ở Yalta, nơi đang xảy ra tình trạng hỗn loạn. Không có công an, có kẻ đập phá và cướp bóc cửa hàng, nhà kho và hầm rượu vang. Tại đây, tàu vận tải đã tiếp nhận thêm vài trăm người và hàng hóa. Việc xếp tải hàng lên tàu đến tận 7 giờ sáng hôm đó mới kết thúc.
Taihọaập đến
Vào lúc 8 giờ ngày 7-11-1941, tàu “Armenia” rời cảng Yalta có một ca nô tuần tiễu hộ tống. Biển có gió bão kèm theo trời mưa, nên làm giảm khả năng tuần tiễu để bảo vệ tàu vận tải. Việc yểm trợ cho tàu bằng hai máy bay tiêm kích (những máy bay này có vẻ như “không phát hiện thấy” máy bay địch tấn công) không được xác nhận bằng tài liệu văn bản.
Điều lạ là, dù biết tình huống xảy ra và biết vị trí tàu “Armenia” đang ở đâu, nhưng Đô đốc Oktyabrsky vẫn ra lệnh không cho tàu rời Yalta trước 19 giờ, tức là trước khi trời tối. Thuyền trưởng Plaushevsky nhận mệnh lệnh này, nhưng vẫn rời Yalta. Trong việc này vẫn còn che giấu một bí ẩn nữa về tai nạn của con tàu. Có thể, điều này có liên quan đến việc tại Yalta lúc đó không có hệ thống phòng không, trong khi quân Đức đã tiến rất gần đến thành phố (chúng đã chiếm Yalta ngày 8-11-1941). Có nghĩa là, quân phát-xít Hitler đã dễ dàng tiêu diệt tàu “Armenia” tại cảng với sự hỗ trợ của không quân hoặc bằng pháo binh dã chiến. Vì vậy, thuyền trưởng Oktyabrsky đã quyết định mạo hiểm ra khơi, bởi cơ hội rời cảng vào lúc thời tiết xấu tránh tổn thất sẽ tăng lên.
Theo lời chứng của lính thủy trên ca nô tuần tiễu hôm đó là Yakovlev, ban đầu lúc gần 10 giờ đã xuất hiện một tên do thám của Đức. Một lúc sau, có hai máy bay phóng ngư lôi của kẻ địch bay là là trên mặt nước xâm nhập vào khu vực. Một chiếc bay về phía Yalta, chiếc còn lại tấn công, nhưng bắn trượt. Vào lúc 11 giờ 25 phút, chiếc Heinkel He 111 của Đức tấn công tàu “Armenia”. Việc thả trực tiếp ngư lôi đã gây ra một vụ nổ lớn. Tàu vận tải bị chìm xuống biển trong vài phút. Chiếc ca nô tuần tiễu chỉ có thể cứu sống được 6 hoặc 8 người. Gần như tất cả bị chết ở khoảng cách xa bờ gần 30km, nước biển rất lạnh.
Sau khi chiến tranh kết thúc, người ta nhiều lần cố gắng tìm kiếm tàu “Armenia” những không thành công. Họ tìm thấy những chiếc tàu cổ bị đắm trong hai cuộc chiến tranh thế giới, nhưng không có tàu quân y. Trong chiến dịch tìm kiếm do lực lượng của Bộ Quốc phòng Nga tiến hành vào năm 2017, dưới đáy biển người ta chỉ phát hiện dải dị thường từ tính. Tháng 3-2020, tại tọa độ này, các mảnh vỡ của tàu “Armenia” đã được phát hiện bởi Tổ hợp nước sâu dưới sự điều khiển của các chuyên gia Trung tâm nghiên cứu dưới nước thuộc Hội địa lý Nga. Con tàu nằm cách bờ 18 hải lý ở độ sâu 1.500 mét.
Những dấu vết của một cuộc tấn công bằng ngư lôi không được tìm thấy. Phần kiến trúc thượng tầng và boong thượng của tàu bị phá hủy nghiêm trọng. Có khả năng tàu “Armenia” bị tấn công bằng bom. Điều này khẳng định giả thuyết cho rằng, tàu bị 4 máy bay của Đức ném bom làm phá hủy phần giữa.