Bị nhiễm amip ăn não cần chế độ dinh dưỡng đặc biệt nào?
Amip ăn não còn gọi là bệnh viêm màng não do amip nguyên phát do Naegleria fowleri gây ra. Đây là một bệnh nhiễm ký sinh trùng não hiếm gặp nhưng tỷ lệ tử vong rất cao.
1. Amip ăn não rất nguy hiểm nhưng khó phát hiện
Nội dung
1. Amip ăn não rất nguy hiểm nhưng khó phát hiện
2. Bệnh diễn tiến rất nhanh khiến cho việc điều trị khó khăn
3. Chăm sóc dinh dưỡng cho người bệnh nhiễm amip ăn não
Theo PGS.TS.BS Phùng Nguyễn Thế Nguyên - Trưởng khoa Hồi sức nhiễm - Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP.HCM), amip Naegleria fowleri là một ký sinh trùng đơn bào, thuộc lớp chân giả và là loài Naegleria duy nhất gây bệnh ở người.
Naegleria fowleri thường được gọi là "amip ăn não" do nó gây bệnh viêm màng não do amip nguyên phát (PAM), nghĩa là tổn thương não và các màng xung quanh cuối cùng là phá hủy mô não. Nhiễm amip ăn não rất khó chẩn đoán. Các triệu chứng đầu tiên xuất hiện từ 1-7 ngày sau khi nhiễm bệnh và tử vong do PAM có thể xảy ra 10-12 ngày sau khi nhiễm bệnh. Một số ít trường hợp phát hiện muộn hơn ở ngày thứ 18.
BS. Phùng Nguyễn Thế Nguyên cho biết: Các triệu chứng ban đầu của bệnh thường không đặc hiệu và giống với các triệu chứng của viêm màng não như nhức đầu, sốt, buồn nôn và nôn do tác nhân vi khuẩn thông thường, do đó chẩn đoán bệnh ở giai đoạn đầu thường khó khăn và chậm trễ.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ, tỷ lệ tử vong khi mắc PAM là hơn 97% vì nhiễm trùng. CDC cho biết: Chỉ có 4 người trong số 154 người nhiễm bệnh được biết đến ở Hoa Kỳ từ năm 1962 đến năm 2021 là sống sót.
Ban đầu, bệnh nhân có biểu hiện đau đầu hai bên trán dữ dội, sốt cao, buồn nôn, nôn, các biểu hiện lâm sàng có thể nhầm lẫn với bệnh lý viêm não - màng não do nhiễm các loại vi khuẩn hoặc vi nấm. Bệnh nhân cũng có thể bị đau họng, ngạt mũi, nhức đầu dữ dội. Sau nhiễm khuẩn từ 24 - 48 giờ, xuất hiện các viêm não với dấu hiệu thần kinh khu trú, mất vị giác, tầm nhìn mờ, cổ cứng, lú lẫn, mê sảng, ảo giác, mất thăng bằng và cuối cùng là hôn mê.
Bệnh amip ăn não rất hiếm gặp cũng như khó chẩn đoán và phát hiện. Nếu bác sĩ nghi ngờ PAM, họ sẽ sử dụng các xét nghiệm cụ thể trong phòng thí nghiệm để tìm mẫu amip trong dịch não tủy, sinh thiết hoặc mẫu mô của não. Có thể mất vài tuần để xác định được amip, thậm chí bệnh nhân tử vong trước khi có kết quả chẩn đoán.
2. Bệnh diễn tiến rất nhanh khiến cho việc điều trị khó khăn
Theo CDC Hoa Kỳ, giai đoạn đầu tiên của các triệu chứng thường bắt đầu bằng cơn đau đầu dữ dội ở vùng trán, sốt, buồn nôn và nôn mửa. Bệnh nhanh chóng tiến triển sang giai đoạn thứ hai, từ cứng cổ, co giật và các vấn đề về tâm thần đến hôn mê. Tử vong có thể xảy ra nếu bệnh nhân không được điều trị nhanh chóng và đầy đủ.
Theo TS.BS. Phùng Nguyễn Thế Nguyên, bệnh tiến triển nhanh chóng và hầu hết người mắc bệnh đều dẫn đến hôn mê và tử vong trong vòng 1 - 18 ngày sau khi các triệu chứng bắt đầu. Đây là một bệnh hiếm gặp nhưng lại gây tổn thương não nặng nề, dẫn đến tử vong đa số các trường hợp.
Thông tin từ CDC Hoa Kỳ cho biết, PAM rất khó phát hiện vì bệnh tiến triển nhanh nên chẩn đoán thường được thực hiện sau khi bệnh nhân đã tử vong. Việc xác nhận chẩn đoán đòi hỏi phải xác định các thể tư dưỡng trong dịch não tủy, nhưng vì tử vong có thể xảy ra sau 5 -7 ngày nên hầu hết các trường hợp đều được chẩn đoán khi khám nghiệm tử thi. Nếu được chẩn đoán kịp thời, phương pháp điều trị được lựa chọn là tiêm tĩnh mạch cả amphotericin B và miconazole, cộng với rifampin.
3. Chăm sóc dinh dưỡng cho người bệnh nhiễm amip ăn não
Khi các biểu hiện viêm não khởi phát, tình trạng bệnh diễn tiến xấu rất nhanh. Hầu hết những bệnh nhân rơi vào tình trạng sức khỏe nguy kịch trong vòng vài ngày và cần được theo dõi và điều trị tích cực tại ICU. ICU là một khoa chuyên biệt trong bệnh viện được trang bị các thiết bị y tế hiện đại và đội ngũ y bác sĩ giàu kinh nghiệm để hỗ trợ tối đa cho việc điều trị.
Bệnh nhân sẽ được theo dõi sát sao các dấu hiệu sinh tồn như nhịp tim, huyết áp, nhịp thở, độ bão hòa oxy,... Các bác sĩ sẽ sử dụng các thiết bị y tế hỗ trợ như máy thở, máy lọc máu, máy theo dõi tim mạch và áp dụng các biện pháp điều trị chuyên sâu như truyền dịch, truyền máu, sử dụng thuốc kháng sinh, kháng nấm. Bệnh nhân điều trị tại khoa ICU ngoài các chăm sóc y tế thường quy sẽ được cung cấp chế độ ăn bằng đường miệng hoặc qua xông (sonde) thích hợp dưới sự giám sát của các chuyên viên dinh dưỡng, các điều dưỡng.
Nhu cầu dinh dưỡng cho bệnh nhân ICU có nhiều vấn đề phức tạp. Vấn đề dinh dưỡng cho bệnh nhân ICU có ảnh hưởng đến tiên lượng điều trị của bệnh nhân. Bệnh nhân cần ưu tiên bổ sung dinh dưỡng qua đường tiêu hóa.
Cung cấp dinh dưỡng cho bệnh nhân ICU thông qua ăn bằng đường miệng với chế độ ăn thông thường cần theo dõi khả năng ăn của bệnh nhân trong vòng 3 ngày đầu nằm viện. Tuy nhiên, đa số các bệnh nhân này thường được chăm sóc dinh dưỡng bằng đường truyền tĩnh mạch hoặc đặt ống sonde. Những bệnh nhân này có thể cần phải được điều chỉnh lượng protein và thành phần điện giải. Bệnh nhân được chăm sóc vệ sinh cá nhân thường xuyên như nền tảng cơ bản cho việc phòng chống nhiễm khuẩn.