Bí thư, trưởng bản - đại biểu của lòng dân (bài 2)
Bài 2: “Người đưa đò” cho nghị quyết “sang sông”
Bài 1: Rào cản ngôn ngữ khiến nghị quyết khó gần dân
Để phá bỏ “rào cản ngôn ngữ” đưa nghị quyết vào cuộc sống, vai trò của đại biểu HĐND là bí thư chi bộ, trưởng bản trong cộng đồng dân tộc thiểu số rất quan trọng. Họ không chỉ đại diện cho tiếng nói của cử tri mà còn là “phiên dịch viên” đặc biệt, chuyển tải nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước bằng tiếng mẹ đẻ, giúp người dân hiểu và làm theo. Nhờ họ, nghị quyết không còn xa lạ, mà thấm vào đời sống, chạm đến từng nếp nghĩ, từng mái nhà nơi vùng cao biên giới Điện Biên.
Khi cơ cấu không chỉ là tỷ lệ
Trong nhiệm kỳ HĐND các cấp tỉnh trước, cơ cấu đại biểu, nhất là cấp xã chủ yếu tập trung ở một số dân tộc Kinh, Thái, Mông, Khơ Mú, trong khi nhiều dân tộc khác như Sán Dìu, Cống, Si La... chưa có đại diện tham gia. Vì thế, không ít nghị quyết khi tuyên truyền xuống bản gặp trở ngại do khác biệt ngôn ngữ. Thực tế ở nhiều nơi đại biểu là người Kinh hoặc Thái khi tiếp xúc cử tri ở bản người Mông, Si La... phải nhờ cán bộ địa phương phiên dịch lại nội dung, khiến thông tin dễ sai lệch, giảm tính hiệu quả.
Khắc phục hạn chế trên, nhiệm kỳ HĐND 2021 - 2026, tỉnh Điện Biên không chỉ tuân thủ quy định về cơ cấu thành phần dân tộc, giới tính, trình độ, phẩm chất theo quy định, mà còn chú trọng tăng cường đại biểu là người dân tộc thiểu số ít người, những dân tộc trước đây chưa có đại diện tham gia trong cơ quan dân cử. Trong đó, chú trọng đội ngũ bí thư chi bộ, trưởng bản trong cộng đồng dân tộc thiểu số. Đây là đội ngũ cán bộ cấp cơ sở gần dân, sát dân nhất, am hiểu phong tục, được dân tin và nói được tiếng nói của dân.
Nhờ đó, nhiệm kỳ này cơ cấu đại biểu chuyển biến cả lượng và chất. Toàn tỉnh có 52 đại biểu HĐND cấp tỉnh, trong đó 57,69% là người dân tộc thiểu số; cấp huyện có 322 đại biểu (gần 55%), cấp xã có 2.711 đại biểu (gần 84%). Lần đầu tiên, tất cả các dân tộc trên địa bàn có đại diện trong HĐND các cấp - một bước tiến quan trọng trong việc bảo đảm quyền đại diện, tiếng nói bình đẳng của các dân tộc. Đặc biệt, toàn tỉnh có gần 450 đại biểu là bí thư chi bộ, trưởng bản - những người trực tiếp gắn bó, am hiểu phong tục, đời sống dân bản.
Ở nhiều địa phương, tỷ lệ đại biểu là bí thư chi bộ, trưởng bản rất cao như: Xã Nà Tấu có 27/60 đại biểu; Thanh Nưa 32/104; Tuần Giáo 25/75; Thanh An 21/68; Mường Ảng 16/64; Sín Thầu 7/41; Sín Chải 10/59 đại biểu... Chính lực lượng này đã trở thành “những người nói tiếng nói của dân”, góp phần quan trọng đưa nghị quyết của HĐND các cấp được “dịch” sang ngôn ngữ đời sống bản địa, lan tỏa và thấm sâu vào từng bản làng.
Sín Thầu là xã khó khăn và xa nhất tỉnh Điện Biên, giáp với Lào và Trung Quốc, chủ yếu đồng bào dân tộc Hà Nhì. Sau khi sáp nhập, xã có 48 đại biểu HĐND xã, trong đó có 10 đại biểu là bí thư chi bộ, trưởng bản. Họ là những người sinh sống, gắn bó với đồng bào dân tộc nơi đây. Chính vì vậy, mỗi khi nghị quyết được thông qua, họ trở thành người “phiên dịch” đặc biệt, mang chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với từng hộ dân, giúp nghị quyết đi vào cuộc sống nơi “phên giậu” Tổ quốc.
Ông Đặng Thành Huy, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Sín Thầu cho biết: Những năm qua, đại biểu là bí thư chi bộ, trưởng bản đã phát huy tối đa vai trò của mình, là cầu nối quan trọng đưa nghị quyết đến từng hộ dân. Nhờ đó, nhiều chủ trương như chuyển đổi cây trồng, xây dựng nông thôn mới, bảo vệ rừng, biên giới... được nhân dân đồng thuận, hưởng ứng cao. Những đại biểu này đã trở thành “cầu nối” giữa nghị trường và bản làng; trong đó một số tấm gương điển hình như ông Lỳ Lèn Sinh, Lỳ Phu Cà, Hạ A Dua...
Ở vùng sâu, vùng xa, rào cản ngôn ngữ khiến tuyên truyền bằng tiếng phổ thông chưa đủ hiệu quả. Vì vậy, các đại biểu là bí thư chi bộ, trưởng bản người dân tộc thiểu số trở thành “cầu nối”, “phiên dịch” đặc biệt, giúp chủ trương, chính sách của Đảng đến gần hơn với dân. Thực tế cho thấy, nghị quyết chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi được dân hiểu, dân tin và làm theo.
Những “phiên dịch” đặc biệt
Khi bí thư chi bộ, trưởng bản trở thành đại biểu, tiếng nói của dân được mang đến nghị trường gần gũi, chân thực hơn. Họ thu hẹp khoảng cách giữa nghị quyết với đời sống, giữa ý Đảng với lòng dân. Những chủ trương, chính sách khi được chuyển ngữ sang tiếng mẹ đẻ, đến với bà con bằng ngôn ngữ quen thuộc thì trở nên dễ hiểu, dễ thực hiện.
Xã Thanh Nưa có nhiều dân tộc sinh sống như Thái, Mông, Dao, Tày... Sau sáp nhập có 104 đại biểu HĐND xã, trong đó có 32 đại biểu là bí thư chi bộ, trưởng bản. Những năm qua, đội ngũ này đã thực sự trở thành cầu nối quan trọng giúp nghị quyết chuyển tải đến người dân một cách dễ hiểu, sinh động và gần gũi. Họ không chỉ giải thích bằng tiếng mẹ đẻ mà còn minh họa bằng những thực tế trong sản xuất, đời sống, giúp bà con nắm rõ và chủ động thực hiện.

Ông Ngọc Văn Dương (ngoài cùng bên phải), Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng bản Pom Mỏ Thổ, xã Thanh Nưa tuyên truyền nghị quyết bằng tiếng dân tộc Tày đến người dân trong bản.
Ông Ngọc Văn Dương, Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng bản Pom Mỏ Thổ, xã Thanh Nưa - một trong những người Tày đầu tiên trên địa bàn tỉnh tham gia HĐND (năm 2016) là minh chứng cho vai trò đại biểu cơ sở gần dân, sát dân. Không chỉ mang tiếng nói, tâm tư của bà con đến nghị trường, ông Dương còn là cầu nối đưa nghị quyết, chính sách trở lại đời sống bằng những lời lẽ giản dị, dễ hiểu. Ông Dương chia sẻ: Đồng bào dân tộc Tày trong bản còn nhiều người chưa biết tiếng phổ thông. Sau mỗi kỳ họp hay tiếp xúc cử tri, tôi đều gặp gỡ bà con, dùng ngôn ngữ mẹ đẻ giải thích cặn kẽ từng nội dung nghị quyết, chính sách, gắn với thực tiễn trong đời sống. Nhờ đó, nhiều chủ trương được người dân Pom Mỏ Thổ đón nhận, thực hiện hiệu quả, góp phần thay đổi diện mạo bản làng.
Là đại biểu HĐND xã Thanh Yên, ông Lò Văn Sam, người dân tộc Cống, Trưởng bản Huổi Moi, nhiều năm qua không chỉ truyền đạt mà còn “phiên dịch” các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nghị quyết HĐND sang tiếng dân tộc để bà con dễ hiểu, dễ làm theo. Khi triển khai chủ trương “Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc Cống”, nhận thấy rào cản ngôn ngữ khiến bà con e dè, không dám làm theo, dẫn đến mất cơ hội, ông Sam đến từng hộ giải thích cụ thể, phân tích lợi ích và hướng dẫn cách thực hiện.
Nhờ đó, người dân Huổi Moi hiểu chính sách và chủ động tham gia các chương trình phát triển kinh tế, áp dụng kỹ thuật mới, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, cải thiện đời sống. Ông Quàng Văn Hom, nhờ được anh Sam tận tình hướng dẫn, đã mạnh dạn chuyển đổi mô hình sản xuất, kết hợp chăn nuôi với trồng lúa nước, thu nhập gần 100 triệu đồng/năm. “Nếu không có anh Sam kiên trì giải thích, tôi cũng không dám vay vốn hay chuyển đổi mô hình kinh tế. Anh ấy đến từng nhà, nói bằng tiếng mẹ đẻ, phân tích kỹ, nên bà con mới hiểu được chính sách, mới dám làm theo” - ông Hom chia sẻ.
Ông Dương, ông Sam chỉ là hai trong hàng trăm đại biểu HĐND là bí thư chi bộ, trưởng bản đang ngày đêm thu hẹp khoảng cách ngôn ngữ, giúp nghị quyết phát huy hiệu quả. Nhờ những nỗ lực âm thầm nhưng thiết thực của đội ngũ này, nghị quyết không còn là những văn bản xa vời mà thực sự đi vào cuộc sống. Từ vai trò “người đưa đò” ấy, nghị quyết không chỉ “sang sông” mà còn bén rễ, thấm sâu vào từng bản làng, người dân. Người dân không chỉ nắm vững chủ trương mà còn tự giác thực hiện, biến nghị quyết thành hành động cụ thể, thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống và củng cố niềm tin, sự gắn kết với chính quyền cơ sở.











