Bia chùa Tổng Phườn - di sản những trang sử đá độc bản miền non nước
Trong dòng chảy vô tận của lịch sử, văn bia đứng như những trang sử đá kiên cố, lặng lẽ ghi dấu ấn thời gian và tinh hoa văn hóa của một vùng đất. Tại Cao Bằng, Bia chùa Tổng Phường tại xã Nam Quang nổi lên như một hiện tượng đặc biệt - không chỉ là một di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh (được công nhận năm 2021) mà còn là một tác phẩm điêu khắc tứ trụ duy nhất được tìm thấy.
Tấm bia nguyên khối màu đen, dù thiếu vắng niên hiệu rõ ràng, lại ẩn chứa một niên đại được giải mã qua những hoa văn Tứ linh tinh xảo và các địa danh hành chính phủ Tuyên Quang xưa, mở ra một "kho báu" quý giá để thế hệ sau chiêm ngưỡng nghệ thuật chạm khắc đỉnh cao, đồng thời, thấu hiểu hơn về đời sống chính trị, tôn giáo và phong tục an dân của người dân Cao Bằng vào buổi giao thời lịch sử.
Chùa Tổng Phường và tấm bia kể chuyện xưa
Chùa Tổng Phườn, xã Nam Quang được xây dựng trên một ngọn đồi khá cao, địa thế rộng rãi, thoáng mát, phía sau làng Tổng Phườn. Mặt chùa quay theo hướng Đông Nam. Chùa xây dựng khoảng thời Nguyễn năm 1800. Trải qua thời gian ngôi chùa cũ không còn, chỉ còn dấu tích nền cao khoảng 80 cm, rộng 11,6m, dài 13m, xây bằng gạch cổ và các tảng đá kê chân cột. Căn cứ các dấu tích còn lại có thể phỏng đoán quy mô của chùa trước kia tương đối lớn. Hiện nay, tại vị trí ngôi chùa cũ người dân địa phương xây dựng lại một ngôi chùa tạm đơn sơ bằng gạch vồ, mái lợp prô xi măng. Tổng diện tích đất xung quanh chùa khoảng 1.000m2. Trước cửa chùa có cây đa cổ thụ, phía sau chùa bên trái có cây gạo, xung quanh có nhiều cây to.

Mặt trước của tường xây từ gạch cổ và đá kê cột chùa Tổng Phườn.
Theo lời kể của các cụ cao tuổi trong vùng, ngôi chùa Tổng Phườn xưa kia có 1 chuông đúc bằng đồng đen chạm khắc hình 2 con rồng. Chuông chùa Tổng Phườn là loại chuông to, muốn dịch chuyển phải 6 người khiêng. Khi gõ cả một vùng đều nghe thấy tiếng chuông (vang xa khoảng 5 km2). Tuy nhiên, chuông hiện nay không còn (chuông đã bị mất vào năm 1966). Chùa Tổng Phườn có kiến trúc hình chữ Nhị, gồm tiền đường và hậu cung. Mái chùa lợp bằng ngói máng với 4 đầu đao được uốn cong. Kèo đỡ mái trang trí Long, Ly, Quy, Phượng; cột chùa hình tròn làm bằng xi măng. Gạch xây chùa lấy từ dưới miền xuôi lên, được vận chuyển theo đường sông Lô lên sông Gâm sau đó người dân chuyển về đây để xây chùa. Bốn góc chùa có 4 tấm bia có khắc chữ nhưng hiện chỉ còn duy nhất 1 bia và 6 hòn đá tảng hình tròn kê chân cột (4 hòn đá tảng hình tròn kê chân cột trong chùa có đường kính rộng 41 cm, cao 15 cm, 2 hòn đá tảng hình tròn kê chân cột ở ngoài hiên. Cột bên phải chùa có đường kính rộng 32 cm, cao 21 cm; cột bên trái chùa có đường kính rộng 34cm, cao 30cm); 4 phiến đá ở bậc cửa lên xuống, mỗi phiến đều có chiều dài 44 cm, rộng 34 cm và 10 ô gạch xếp hình vuông kê chân cột phụ, tường xây bằng gạch đã bị đổ nát (được nhân dân trong làng xếp xung quanh ngôi chùa)
Mặc dù Bia chùa Tổng Phườn, xã Nam Quang không đề niên hiệu, nhưng căn cứ vào hình dáng bia, các mảng chạm khắc trang trí, địa danh khắc trên bia có thể đoán định bia được lập vào cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn. Đây là thời kỳ triều đình phong kiến chú trọng Phật giáo và rất quan tâm đến vùng đất Cao Bằng, cũng vì thế mà ảnh hưởng Phật giáo. Các chùa được lập nên không có sư, tăng ni cai quản, ngoài thờ phật hầu hết các chùa đều thờ các thần hoặc các thành hoàng như những ngôi đền nhằm để an dân, cầu phúc, cầu lộc, mùa màng, che chở cho con người tránh khỏi những rủi ro...

Bà Ma Thị Lường, xóm Tổng Phườn, xã Nam Quang kể lại những ký ức còn nhớ về chùa và lễ hội chùa Tổng Phườn.
Trên mặt phải tấm bia có đề năm Canh Thân; mặt trước khắc: Xã Nam Quang, châu Bảo Lạc, phủ An Bình, xứ Tuyên Quang; với phong cách chạm khắc trang trí cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn, có thể phân tích như sau: Trong lịch sử phong kiến cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX có các năm Canh Thân như sau: Năm 1740, 1800, 1860. Theo cuốn Địa danh làng xã Việt Nam thế kỷ XIX của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, các dịch giả cho rằng cuốn sách "Các trấn tổng xã danh bị lãm" được viết vào khoảng năm 1810 và viết về các địa danh từ khoảng năm 1802 - 1820. Theo sách "Các trấn tổng xã danh bị lãm" ở thế kỷ XIX, xứ Tuyên Quang gồm 1 phủ, 1 huyện, 5 châu, 38 tổng, 256 xã, thôn, phường, vạn, phố. Phủ Yên Bình thuộc xứ Tuyên Quang có 1 huyện, 5 châu trong đó có Châu Bảo Lạc. Từ các dữ kiện trên, có thể đoán định Bia Tổng Phườn được lập vào năm 1800.
Theo các cụ ông, cụ bà, xóm Tổng Phường, xã Nam Quang, như: Ma Thị Lường, Ma Thế Quang… lại kể: Chùa Tổng Phườn trước đây có gắn với lễ hội được tổ chức hằng năm vào tháng Giêng tại địa phương thu hút đông đảo người dân địa phương đến thắp hương, cầu lộc, cầu tài. Nhưng chiến tranh, sau một thời gian dài, chùa bị xuống cấp…, lễ hội không còn được tổ chức. Những năm gần đây, lễ hội Chùa Tổng Phườn đã được khôi phục lại vào ngày 3/3 Âm lịch nhằm đáp ứng đời sống sinh hoạt tinh thần của người dân địa phương. Lễ hội được diễn ra trên một thửa ruộng rộng bằng phẳng với các trò chơi dân gian như: Đẩy gậy, kéo co, chọi dế. Các làn điệu dân ca mượt mà cũng được cất lên trong một không gian yên bình. Lễ hội Tổng Phườn diễn ra đã thu hút đông đảo người dân trong vùng tham dự.
Giá trị kiến trúc nghệ thuật độc bản và vô giá của bia tứ trụ
Giá trị lớn của ngôi chùa Tổng Phườn còn lại là một tấm bia đá bốn mặt (hay còn gọi là bia tứ trụ). Đây cũng là bia tứ trụ duy nhất được phát hiện lần đầu tiên trên địa bàn tỉnh, không chỉ là một di tích khảo cổ học quan trọng cung cấp thông tin xác thực về địa danh hành chính, niên đại ước định (khoảng năm 1800), mà còn là một tác phẩm nghệ thuật chạm khắc đá độc đáo, một minh chứng sống động cho sự giao thoa tín ngưỡng và tư tưởng Phật giáo trong cộng đồng dân cư vùng Cao Bằng vào buổi đầu triều Nguyễn.

Các mặt của bia tứ trụ tại chùa Tổng Phườn.
Bia được tạo tác từ một khối đá nguyên màu đen, bốn mặt đều mài phẳng. Trên trán bia, cả bốn mặt đều được chạm khắc hoa văn trang trí tứ linh, Long, Ly, Quy, Phượng. Bia nét khắc to, rõ, dễ đọc. Tuy nhiên, do dựng ngoài trời, không có mái che trên nên một số chữ bị mờ, mòn. Bia chia làm 3 phần với kích thước: Đế bia (hình chữ nhật, dài 66cm, rộng 38cm, dày 8cm); Thân bia (cao 90cm, phần khắc chữ cao 66cm, rộng 30cm); Trán bia: cả 4 mặt đều chạm khắc trang trí tứ linh với các đường nét chạm rất mềm mại, đạt tới trình độ, kỹ thuật tinh xảo. Phần diềm bia tuy không tách biệt nhưng vẫn được tạo khung làm ranh giới với phần khắc chữ.
Phần khắc chữ trên cả 4 mặt bia với tổng cộng 124 chữ, khắc theo cột dọc, gồm: Mặt trước: 4 cột có 34 chữ, các nét tương đối to. Phần này có nội dung nói về vị trí ngôi chùa, tên các quan dẫn đầu cùng bản tộc lập bia. Phiên âm: “Tuyên Quang xứ, An Bình phủ, Bảo Lạc châu Nam Quang xã tín quan đái lãnh Trạch Hải Hầu thân đệ Con Trung Hầu, cầu Vương Hầu kị bản tộc đẳng thành tâm cẩn tạo”. Dịch nghĩa: Xã Nam Quang, châu Bảo Lạc, phủ An Bình, xứ Tuyên Quang. Các quan dẫn đầu tín phụng là Trạch Hải Hầu, em ruột của Trung Hầu, Câu Vương Hâu cùng bản tộc thành tâm tạo lập.
Mặt sau: 5 cột có 67 chữ, là một bài thơ thể thất ngôn Đường luật, nói về cảnh đẹp của chùa, những lời răn dạy của Phật, sống có tâm có thiện thì trời trả thiện. Phiên âm: Danh lam cô tích hiệu Đồng Viên (Tống Viền) nhất niệm nhất tu ức tải miên/Hạo hạo khôi khôi hương tỏa vụ, không không sac sắc lục sinh liên/Quang cao tự thử nhân vãn thịnh, hầu bảo dĩ tư cảnh sắc nghiên/Tích thiện duyên hề phùng thiện bảo, thụ thiên chi hựu dưỡng tư niển (Sơn kỳ thủ Đỉnh Văn Thuộc huân nghĩa bá bái đề). Dịch nghĩa: Danh lam cổ tích hiệu Đồng Viên (Tổng Phườn)/Vừa bái vừa tu năm tháng truyền/Trắng trắng lam lam hương ngút khói/ Không không sắc sắc đất sinh sen/Thanh cao từ đó nhân vãn thịnh/Hầu Bảo lúc này cảnh sắc tiên/Tích thiện có tâm trời trả thiện/Trời phù nhân thế sống tươi xuân (Thơ: Đinh Văn Thuộc, Huân Nghĩa Bá bải đề).

Mặt trước tấm bia với 34 chữ Hán còn tương đối rõ nét.
Mặt phải: 3 cột có 15 chữ, ghi năm lập bia tuy nhiên chỉ đề là năm Canh Thân, vì vậy, không xác định được bia dựng chính xác là vào năm nào. Căn cứ hoa văn trang trí và địa danh khắc trên bia có thể đoán định bia được dựng vào thời gian cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn. Phiên âm: Thiên vận tuế thứ Canh Thân long đông nguyệt cốc nhật lương cảo kính lập. Dịch nghĩa: Thiên vận tuế, ngày tốt mùa đông năm Canh Thân lập để kính cáo.
Mặt trái: 1 cột có 8 chữ, nói về ơn đức của Phật ứng phổ rộng rãi, đất nước tốt đẹp lâu dài. Phiên âm: Phật ân quảng biên quốc tộ trường miên. Dịch nghĩa: Ơn Phật ứng phổ rộng rãi, đất nước tốt đẹp lâu dài.
Bia chùa Tổng Phườn với những nét chạm khắc tinh xảo trên đá, dù phong hóa theo thời gian vẫn vang vọng một thông điệp về tình người, về đạo lý "tích thiện duyên hề phùng thiện bảo" và về ước mong đất nước trường tồn. Bia chùa Tổng Phường chính là sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại, nhắc nhở thế hệ hôm nay về giá trị của lịch sử, về sự sáng tạo nghệ thuật và chiều sâu văn hóa của cha ông, đồng thời, thôi thúc chúng ta gìn giữ và phát huy những di sản vô giá này cho muôn đời sau.













