Bia ma nhai Đà Nẵng được UNESCO công nhận là Di sản châu Á - Thái Bình Dương
Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng và Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (1689-1943) đã được UNESCO ghi vào Danh mục Di sản tư liệu châu Á - Thái Bình Dương.
Sau 3 ngày làm việc liên tục, ngày 26/11 Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã thông qua 9/13 hồ sơ ghi vào Danh mục Di sản tư liệu châu Á - Thái Bình Dương. Việt Nam được ghi danh 2 di sản, gồm Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng và Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (1689-1943).
Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng là kho tàng di sản tư liệu quý giá bằng chữ Hán và chữ Nôm, với số lượng lớn, gồm 78 bia ma nhai (trong đó có 76 bia chữ Hán và 2 bia chữ Nôm). Nội dung, phong cách biểu hiện đa dạng, hình thức độc đáo, với nhiều thể loại như: ngự bút, bia ký, tán, thơ văn, đề từ, đề danh, câu đối,… của các vị vua, quan triều Nguyễn, cao tăng, cùng bao thế hệ tao nhân, mặc khách đã từng dừng chân lưu đề trên vách đá, hang động tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, từ nửa đầu thế kỷ XVII đến thập niên 60 của thế kỷ XX.
Bia ma nhai là những tư liệu cực kỳ giá trị, chân xác và đặc sắc, thể hiện rõ tính giao thoa, hòa điệu về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các quốc gia như Nhật Bản - Trung Hoa - Việt Nam tại Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Đây là các tác phẩm trên đá độc đáo ấn tượng, nhiều kiểu chữ viết như Chân, Hành, Thảo, Triện, Lệ,…
Đây cũng là tài liệu gốc duy nhất được vua Minh Mạng ngự bút và cho khắc lên các vách núi, hang động. Sự kiện này được ghi chép lại trong các tài liệu lịch sử như Đại Nam Nhất Thống chí, Đại Nam Thực lục, Đại Nam dư địa chí ước biên,…
Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (1689-1943) là bộ sưu tập độc bản được viết bằng tay, gồm: 26 sắc phong gốc do các vua triều Lê, Nguyễn ban tặng; 19 tờ văn bằng và 3 bức trướng bằng lụa, viết bằng chữ Hán và chữ Nôm từ năm 1689 đến năm 1943.
Với giá trị nguyên gốc, độc bản, các văn bản có nguồn gốc rõ ràng và các sự kiện liên quan,… đã từng làm nguồn tư liệu để biên soạn sách. Vì vậy nhiều thông tin có thể kiểm chứng, đối chiếu qua các tài liệu chính sử của Việt Nam, như Đại Việt sử ký tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục; cũng như qua các sách khảo cứu như Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch. Chất liệu đa dạng từ giấy dó, giấy dó đặc biệt và lụa, chữ trên văn bản được viết đẹp, rõ ràng.
Theo Đại diện Cục Di sản Văn hóa, d8ây là tư liệu quý hiếm về văn hóa và giáo dục vẫn còn lưu giữ dù qua nhiều biến cố lịch sử. Các tư liệu gốc này giúp nghiên cứu quan hệ xã hội, lịch sử phát triển của làng thời xưa, đặc biệt trong giai đoạn từ cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 20".
Đến nay Việt Nam có 9 di sản tư liệu được vinh danh, trong đó ba di sản cấp thế giới (mộc bản triều Nguyễn, bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê và Mạc, châu bản triều Nguyễn), sáu hồ sơ thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương (hoàng hoa sứ trình đồ, mộc bản kinh Phật thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm, thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, mộc bản trường Phúc Giang và hai tư liệu mới được công nhận).
Hàng trăm hiện vật, gốm Chu Đậu trong tàu đắm ở biển Cù Lao Chàm
Hơn 120 hiện vật được xác định sản xuất vào thế kỷ 15 được trưng bày tại phố cổ Hội An (Quảng Nam).
Thanh Huyên