'Biến di sản thành tài sản' – Nguồn lực tài chính cho kinh tế văn hóa bền vững
Bảo tồn di sản gắn với chính sách tài chính đang mở ra hướng đi mới cho phát triển bền vững. Ngành Tài chính đồng hành giúp di sản 'sống' trong đời sống hiện đại, vừa giữ gìn truyền thống, vừa tạo động lực cho du lịch và kinh tế cộng đồng.
Văn hóa truyền thống – Nền tảng bền vững cho du lịch nông thôn
Theo Báo cáo mới nhất của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, giai đoạn 2021 - 2025 (chỉ riêng dự án 6 "Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch" Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi) các đơn vị chức năng phối hợp với địa phương đã bảo tồn, phục dựng và phát huy 139 lễ hội truyền thống, trong đó nhiều lễ hội đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Qua đó, di sản không chỉ được gìn giữ mà còn trở thành sản phẩm du lịch độc đáo. Thay vì chỉ dừng lại ở gìn giữ, bảo tồn, văn hóa các dân tộc thiểu số giờ đây đang từng bước được chuyển hóa thành sản phẩm du lịch đặc sắc, giúp tạo sinh kế, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng sống cho người dân.

“Biến di sản thành tài sản” – Nguồn lực tài chính cho kinh tế văn hóa bền vững.
Ông Hoàng Việt Trung, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế chia sẻ: Từ thực tiễn mô hình phát triển kinh tế di sản của Huế, có thể thấy, việc “biến di sản thành tài sản”, tạo ra giá trị kinh tế từ chính những giá trị văn hóa truyền thống là hướng đi phù hợp. Tuy nhiên, nội dung về phát triển kinh tế di sản cần được đề cập sâu hơn, thể chế hóa mạnh mẽ hơn trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội 14 của Đảng.
Cùng với đó, hơn 50 làng, bản, buôn truyền thống được bảo tồn, đầu tư xây dựng 69 điểm đến du lịch tiêu biểu, từng bước hình thành mô hình bản văn hóa - du lịch, điểm văn hóa - du lịch, mở ra hướng phát triển kinh tế bền vững cho đồng bào. 29 di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia tiêu biểu được hỗ trợ tu bổ, tôn tạo. Đây là sự gìn giữ ký ức thiêng liêng của dân tộc, đồng thời là điểm nhấn thu hút khách du lịch. Hơn 700 câu lạc bộ văn hóa dân gian và 5.760 đội văn nghệ truyền thống đã được thành lập, duy trì hiệu quả.
Qua đó tạo nên sự chuyển biến sâu sắc trong đời sống kinh tế - xã hội của đồng bào. Hạ tầng văn hóa được cải thiện; đời sống tinh thần được nâng cao. Đồng bào thêm tự hào về nguồn cội, phát huy tri thức bản địa, tạo việc làm, tăng thu nhập nhờ gắn văn hóa với du lịch.
Tại Dự thảo các văn kiện trình Đại hội 14 của Đảng một điểm nhấn về tư tưởng, chiến lược lâu dài được xác lập rõ ràng là: Văn hóa, con người là nền tảng, nguồn lực, sức mạnh nội sinh và là động lực to lớn, hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam.
Đây không chỉ là sự kế thừa quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội” mà còn là bước phát triển về nhận thức và hành động trong giai đoạn đất nước hội nhập sâu rộng. Trong đó, nội dung bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế di sản là một điểm nhấn, thể hiện quyết tâm của Đảng trong việc đưa văn hóa trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển đất nước bền vững.
Nhiều ý kiến thảo luận thống nhất cho rằng, quan điểm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế di sản thể hiện tư duy mới về phát triển văn hóa bởi trước đây công tác bảo tồn thường tập trung vào “giữ gìn nguyên trạng”.
Việc phát triển kinh tế di sản không chỉ nhằm khai thác hợp lý giá trị di sản mà còn góp phần tạo nguồn lực tái đầu tư cho công tác bảo tồn, hình thành chu trình phát triển bền vững, trong đó bảo tồn tạo nền tảng cho phát triển và phát triển cung cấp nguồn lực cho bảo tồn.
Thực tiễn tại nhiều địa phương cho thấy, kinh tế di sản nếu được phát triển đúng hướng sẽ mang lại lợi ích “kép”: Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng dân cư, khơi dậy trách nhiệm và niềm tự hào của người dân trong việc giữ gìn, quảng bá văn hóa dân tộc; đồng thời là cách thức giúp di sản “sống” trong lòng xã hội hiện đại.
Ông Hoàng Việt Trung, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế chia sẻ: Thành phố Huế là địa phương hiện có 8 di sản được UNESCO công nhận, thành phố Huế đã có nhiều giải pháp khai thác hiệu quả di sản, tạo ra giá trị kinh tế nhưng vẫn bảo đảm gìn giữ, bảo tồn di sản, trong đó nổi bật là số hóa và chuẩn hóa dữ liệu di sản. Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã thực hiện chuẩn hóa dữ liệu di sản gồm: 1.400 bộ hồ sơ đã được chỉnh lý, 110.000 trang tài liệu đã được số hóa...
Từ kho dữ liệu số, thành phố Huế đã bước đầu hình thành các sản phẩm văn hóa như: Triển lãm tương tác, triển lãm số, trạm tương tác du lịch thông minh, chứng nhận số; triển khai dự án TapQuest tại Hải Vân Quan, cho phép du khách có thể tương tác thông qua các điểm trạm tương tác thông minh… Những sản phẩm này giúp chuyển đổi từ “bảo tồn tĩnh” sang “triển lãm động”, biến dữ liệu di sản thành nguồn lực kinh tế mới, góp phần lan tỏa giá trị văn hóa đặc trưng của Huế ra thế giới.
Tài chính kiến tạo văn hóa: Hiệu quả từ mỗi đồng ngân sách đầu tư cho di sản
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa tổng kết 5 năm thực hiện dự án 6: “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”. Theo đó, tổng nguồn vốn ngân sách trung ương đầu tư cho dự án 6 lên đến 3.160 tỷ đồng, bao gồm vốn đầu tư xây dựng 1.806 tỷ đồng và vốn sự nghiệp 1.354 tỷ đồng.

Trong những năm qua, tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, Bộ Tài chính phối hợp Ngân hàng Chính sách xã hội giải ngân 1.200 tỷ đồng cho 150 câu lạc bộ cồng chiêng.
Mục tiêu chung của dự án là khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ làm công tác dân tộc, văn hóa, thể thao, du lịch; hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị văn hóa cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để nâng cao mức thụ hưởng về văn hóa cho đồng bào các dân tộc gắn với phát triển du lịch cộng đồng.
Ông Hồ Văn Mười - Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng - cho biết, tỉnh này hội tụ 49 dân tộc anh em, sở hữu kho tàng di sản văn hóa phong phú. Trong số 144 di tích, có 3 di tích quốc gia đặc biệt, cùng nhiều di sản được UNESCO công nhận.
Theo ông Mười, tỉnh Lâm Đồng có tiềm năng trở thành trung tâm du lịch văn hóa - sinh thái tầm quốc gia. Ông mong muốn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục hỗ trợ, đồng hành để biến kho tàng di sản văn hóa thành các sản phẩm du lịch độc đáo, gắn kết cộng đồng và thu hút du khách.
Bên cạnh đó, trong những năm qua, tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, Bộ Tài chính phối hợp Ngân hàng Chính sách xã hội giải ngân 1.200 tỷ đồng cho 150 câu lạc bộ cồng chiêng. Mỗi câu lạc bộ không chỉ bảo tồn văn hóa mà còn kết nối tour du lịch cộng đồng, doanh thu bình quân 350 triệu đồng/năm. “Văn hóa giờ là hàng hóa, nhưng phải có chính sách tài chính để định giá đúng,” đại diện Văn phòng Điều phối nông thôn mới nhấn mạnh.
Ngành Tài chính còn tiên phong mô hình “ngân sách hiệu suất”. Các địa phương chỉ nhận bổ sung vốn khi đạt KPI: tỷ lệ sử dụng nhà văn hóa >70%, số sự kiện >100/năm. Kết quả: 4.200 nhà văn hóa được nâng cấp, 1.800 sân thể thao đạt chuẩn quốc gia, lãng phí giảm 65%. Ở Đồng Tháp, mô hình “thư viện cộng đồng xanh” nhận 100% vốn từ quỹ tiết kiệm chống lãng phí của ngành Tài chính tỉnh, trở thành điểm check-in thu hút 200.000 lượt khách/năm.
Hướng tới 2030, Bộ Tài chính đề xuất Quỹ Phát triển văn hóa nông thôn 50.000 tỷ đồng, trong đó 30% từ trái phiếu xanh, 20% từ thuế tiêu thụ đặc biệt rượu bia. “Văn hóa không phải chi phí, mà là đầu tư dài hạn,” Thứ trưởng Tài chính khẳng định tại Hội nghị tổng kết giai đoạn 2021-2025.













