Di sản lọng bướm hồi sinh giữa đời sống đương đại
Chiếc lọng bướm - biểu tượng tinh xảo của văn hóa, được ba nghệ sĩ trẻ phỏng dựng và tái sinh trong triển lãm 'Những thiên hình vạn trạng'.

Lọng bướm mang thông điệp gửi gắm lời chúc trường thọ, phúc lộc và sinh sôi.
Sau hơn một thế kỷ vắng bóng, chiếc lọng bướm - biểu tượng tinh xảo của văn hóa, từng hiện diện trong nghi lễ và đời sống An Nam xưa, được ba nghệ sĩ trẻ phỏng dựng và tái sinh trong triển lãm “Những thiên hình vạn trạng”.
Tái sinh di sản lọng bướm
“Những thiên hình vạn trạng” do Ngày xưa Asia phối hợp cùng Toong tổ chức, không chỉ trưng bày hơn 40 tác phẩm lọng hình và lọng trắng, mà còn sắp đặt như một cuộc đối thoại giữa quá khứ và hiện tại.
Diễn ra đến ngày 22/11 tại Toong (TPHCM), ba nghệ sĩ trẻ Khoa Phùng, Lâm Ơi và Nghiêu Thiên - đều là cựu sinh viên Trường Đại học Mỹ thuật TPHCM cùng nhau viết nên câu chuyện đặc biệt về quá trình hồi sinh di sản thất truyền bằng sức sáng tạo của thế hệ trẻ.
Theo thông tin từ Ban tổ chức, trong văn hóa Việt cổ, lọng không chỉ là vật che nắng che mưa, mà còn là biểu trưng cho phẩm bậc, niềm tin và sự tôn nghiêm. Từ cung đình đến dân gian, chiếc lọng xuất hiện trong nghi lễ, tế tự, rước hội… như biểu hiện của trời đất và con người hòa hợp.
Giữa hàng trăm kiểu dáng lọng cung đình và dân gian, lọng bướm là sáng tạo đặc biệt ra đời từ những nan tre gãy, được người thợ ghép lại thành hình cánh bướm. Với tám cánh nhỏ bao quanh một cánh lớn (cửu điệp) và quả mãng cầu ở đầu, lọng bướm gửi gắm lời chúc trường thọ, phúc lộc và sinh sôi.
Nhưng cùng với dòng chảy thời gian và sự thay đổi của xã hội, nghề làm lọng bướm dần mai một. Loại hình thủ công tinh xảo này biến mất khỏi đời sống hơn một thế kỷ qua, chỉ còn lưu dấu vài trang minh họa của Henri Oger trong cuốn “Kỹ thuật của người An Nam”. Chính hình vẽ ấy đã trở thành nguồn cảm hứng để ba nghệ sĩ 9X: Khoa Phùng, Nghiêu Thiên và Lâm Ơi bắt đầu hành trình phục dựng.
Khoa Phùng chia sẻ: “Lần đầu tiên nhìn thấy hình chiếc lọng trong sách, tôi thấy nó ngồ ngộ, vừa quen vừa lạ. Tôi biết rằng nếu không làm gì đó, di sản này sẽ biến mất mãi mãi”. Không có tư liệu hướng dẫn, không có thầy chỉ dẫn, Khoa bắt đầu mày mò từng bước. Anh thử nghiệm nhiều cách ghép nan tre, đo đạc, uốn cong khung, chọn giấy, pha màu.
Để hoàn thiện một chiếc lọng bướm, anh phải mất nửa tháng trời với nhiều quy trình tỉ mỉ: đo phôi, cắt nan, lót giấy xuyến, phủ dầu trẩu, vẽ họa tiết rồi phơi khô nhiều lần. Nhiều vật liệu phải nhập ngoại do nghề làm lọng ở Việt Nam đã thất truyền. “Những ngày đầu, thất bại nối tiếp thất bại. Dây đan bị cộm, giấy rách, màu không đều. Nhưng tôi biết mình phải kiên nhẫn, vì chỉ một chiếc phôi cũng là một phần ký ức của tổ tiên”, Khoa Phùng nhớ lại.
Khi chiếc lọng đầu tiên ra đời, Khoa chia sẻ hình ảnh lên mạng xã hội. Nhiều người trầm trồ, nhưng cũng có người nhầm tưởng đó là sản phẩm Trung Quốc hay Nhật Bản. Chính điều này khiến anh thêm quyết tâm: “Việt Nam mình vẫn còn nhiều cái đẹp, chứ không phải cái gì đẹp đều là của nước ngoài”.
Nguyên mẫu của Khoa trở thành nền tảng để nghệ sĩ Lâm Ơi và Nghiêu Thiên tham gia. Lâm Ơi tốt nghiệp khoa Sơn mài, khai thác chất liệu truyền thống để kể chuyện mới qua từng lớp phủ, từng nếp giấy. Mỗi chiếc lọng của anh là một bức tranh di động, nơi truyền thống được làm mới qua gam màu rực rỡ và cấu trúc mềm mại.
Trong khi đó, Nghiêu Thiên lại chọn hướng sáng tạo khác, đưa lọng bướm “xuống đáy nước” với hình tượng cá vàng, cua và hoa văn sóng nước. Một chiếc lọng cua của anh, với con cua ôm đồ án, ẩn chứa lời chúc đỗ đạt và thịnh vượng.

Các nghệ sĩ chia sẻ về hành trình phục dựng và tái sinh lọng bướm.
Mỗi chiếc lọng là một câu chuyện thăm thẳm
Nghệ sĩ Lâm Ơi cho biết, anh lấy cảm hứng từ tranh Hàng Trống, họa tiết chim phượng thời Nguyễn, men lam Chu Đậu… tất cả đều được chuyển thể thành những chiếc lọng rực rỡ, đa sắc nhưng vẫn giữ tinh thần truyền thống. Nghệ sĩ Nghiêu Thiên lại muốn đưa vẻ đẹp của tự nhiên và di sản vào những hình thể mới, để người trẻ nhìn thấy sự sống động của văn hóa dân tộc.
Để hồi sinh di sản lọng bướm, Khoa Phùng không ngừng thử nghiệm các chất liệu mới, như khoáng silicat tạo ánh phản quang lấp lánh như ngọc, thậm chí đưa yếu tố văn hóa đại chúng vào chiếc lọng bướm. Anh cho rằng: “Nếu người trẻ không thấy mình trong đó, họ sẽ bỏ qua nên tôi muốn chiếc lọng trở thành thứ khiến ai đó mỉm cười và tự hỏi “cái này từ đâu ra?”, đó là lúc văn hóa bắt đầu được gợi lại”.
Lọng bướm trong triển lãm “Những thiên hình vạn trạng” biến không gian trưng bày trở thành một “rừng cánh bướm”, ánh sáng hắt qua lớp giấy xuyến mờ, phản chiếu các gam sơn đỏ, vàng, lam… tạo cảm giác vừa cổ điển vừa mộng mị, chứa đựng cả một câu chuyện văn hóa dài hàng trăm năm.
Nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Văn Chương cho biết, điều đáng quý nhất là các nghệ sĩ trẻ không chỉ làm sống lại một nghề đã mất, mà làm nó bằng tinh thần của người hôm nay, tôn trọng cội nguồn nhưng dám tái tạo.

Mỗi chiếc lọng mang một câu chuyện về di sản văn hóa.
“Những thiên hình vạn trạng” cũng mở ra cách nhìn mới về bảo tồn. Di sản không phải lúc nào cũng phải giữ nguyên, đôi khi cần đánh thức bằng sáng tạo. Khi chiếc lọng bướm xuất hiện với hình Pokémon hay họa tiết men Chu Đậu, đó không còn là phá cách mà là cách kể chuyện mới của truyền thống.
Các nghệ sĩ cho rằng, họ không làm bảo tàng mà chỉ muốn mọi người thấy di sản vẫn có thể đẹp, gần gũi và hiện đại nếu đặt tình yêu vào nó. Mỗi chiếc lọng là một câu chuyện dài thăm thẳm, họ muốn khán giả không chỉ nhìn mà cảm nhận và tự tìm hiểu về ý nghĩa văn hóa phía sau.
Hành trình phục dựng lọng bướm là minh chứng cho sức sống của văn hóa Việt dưới bàn tay của người trẻ. Từ hình minh họa cũ của Henri Oger, ba nghệ sĩ mở ra một chuỗi đối thoại về bảo tồn, bản sắc và sáng tạo. Di sản không chỉ nằm trong đình chùa hay sách cổ mà có thể hiện diện ngay trước mắt, nếu chúng ta kiên nhẫn lắng nghe.
Chiếc lọng bướm từ phôi tre mảnh mai đến hình dạng hiện đại, với những biến thể vừa ngẫu hứng vừa nghiêm cẩn, phản ánh cách thế hệ trẻ tiếp nối di sản bằng ngôn ngữ riêng. Như chia sẻ của nghệ sĩ Khoa Phùng: “Việt Nam vẫn còn nhiều cái đẹp, chỉ là chúng ta chưa dám nhìn lại bằng ánh mắt trân trọng. Nếu giữ di sản mà không sáng tạo, nó sẽ chỉ là ký ức cũ; Nhưng nếu biết hồi sinh, văn hóa sẽ sống lại với chúng ta mỗi ngày”.











